Chủ Nhật, 29 tháng 6, 2008

46 - Quảng Trị và những đồng đội còn nằm lại - Lê Chí Hòa K5, Tr.: 204-208



Quảng Trị và những đồng đội
còn nằm lại


LÊ CHÍ HÒA *
Học sinh khóa 5

refont.com - Glitter textè năm 1973, khi đang bận rộn ôn thi hết năm thứ ba thì thấy trực ban báo có khách. Chạy ra cổng Bảo Sơn thì thấy Lê Bình và Chính “đen” đang ngồi chờ trong phòng khách. Bọn tôi ôm lấy nhau mừng rỡ: “Chúng mày ra khi nào?”

- Mới từ Quảng Trị ra. – Bình chậm rãi trả lời – Cục Cán bộ cho hai thằng về học.

- Quá hay! Thế là từ nay lại được gần nhau.

Lê Bình học cùng khóa 5 với tôi, Phan Nam và Kiến Quốc. Năm 1970, cậu thi vào Học viện Thuỷ lợi (mà chả hiểu sao ngày ấy duy nhất có trường đại học này được gọi là Học viện?). Cuối năm 1971, có lệnh Tổng động viên, bốn thằng khóa tôi đang học ở Thuỷ lợi (Lê Bình, Cường “mèo”, Lâm “tắc ly” và Doanh “mán”) đều xin nhập ngũ. (Về nguyên tắc, con em bộ đội được miễn đợt này vì cha mẹ đang tại ngũ, nhưng chả lẽ con dân thì đi còn con bộ đội thì ở nhà? Kì quá!). Bốn bạn ra đi thật nhẹ nhàng. (Nói vậy, Cường và Doanh chắc chưa “dính” em út, chứ Lê Bình và Lâm thì đã…có!). Và bốn bạn đã trở thành niềm tự hào của khóa 5! Nghe qua báo đài thấy chiến sự xảy ra ác liệt ở Thành cổ Quảng Trị, mỗi lần gặp nhau chúng tôi cùng chia sẻ sự lo lắng: Không hiểu bốn chàng “ngự lâm quân” của lớp ra sao!

Và hôm nay, khi cậu trở về, gương mặt đen nhẻm, áo quần còn khét lẹt mùi chiến trận, râu ria tua tủa, vẻ mặt mệt mỏi. Trò chuyện một lúc, bọn tôi đưa ngay hai đứa đi làm thủ tục nhập học, rồi ra giếng tắm rửa cho sạch bụi đường.

Chiều thứ bảy, tôi báo cho Tấn Lợi, Ngọc Sơn, Ái “khỉ” từ Trung cấp Cơ khí về “hội quân”, mừng thằng bạn từ mặt trận mới trở về. Gọi là liên hoan nhưng thật đơn giản: hai bao thuốc Điện Biên bao bạc (tuần trước về Hà Nội vào Giao tế mua, còn giấu được chưa bị anh em bắt mang ra hút), hai nải chuối trứng cuốc mới bê từ quán bà “Bệt” về cùng một bịch lạc rang nóng giòn. Chiến “thộn” chả hiểu kiếm đâu được chai rượu trắng, cũng mang ra góp vui. Cơm nước xong, bọn tôi hẹn nhau ra sân bóng của trường, kéo ra đầu gôn nằm dài trên cỏ chờ bạn. Ngọn cỏ đâm vào da ngưa ngứa khó chịu, nhưng… mặc! Cánh Tấn Lợi kiếm được cả một gói kẹo bọc lạc ba lớp giấy của Xí nghiệp kẹo Hải Hà. Trời tối dần, gió chiều mát rượi từ hướng Tam Đảo thổi về. Anh em rì rầm bàn tán: “Dạo này thằng Bình thay đổi quá, lầm lì ít nói, hút thuốc nhiều hơn và hay suy tư… Hình như có điều gì không vui?”

Nửa tiếng sau, hai thằng mới tới. Bình vội thanh minh: “Tối nay, đại đội vừa tập trung động viên cánh lính chiến trường trở về nên bọn tao ra muộn. Tuần sau vào học rồi.” Bọn tôi vội mở gói lạc đang ủ trong giấy báo và bày kẹo, chuối, rượu ra “tỉ thí”. Chén rượu vòng quanh, vừa uống Lê Bình vừa chậm rãi kể lại: “… Sau ngày nhập ngũ, cả bốn thằng tao về cùng sư đoàn 325 của chú Lê Kích và chú Nguyễn Công Trang. Riêng tao và Cường “mèo” được ở cùng đại đội. Bọn tao vượt sông Thạch Hãn vào Thành cổ từ đầu tháng 7. Lính 325 nghịch thì quá trời nhưng bọn ngụy mỗi lần nghe tên thì khiếp vía! Toàn lính sinh viên nhưng đánh rất kiên cường. Quân ngụy cố gắng chiếm lại nhưng không được, liên tục bị đánh bật ra, mặc dù hoả lực chúng rất mạnh. Vất vả lắm, nhất là mỗi lần thay quân. Lúc ngưng tiếng súng, lính tiểu đội tao rủ nhau xăm lên mình hai chữ “Tổ quốc” vì có thằng mò vào hầm địch kiếm ra thỏi mực Tàu. Tao và Đinh Tuấn xung phong cho hai thằng bạn đè ra lấy kim xăm vào ngực. Đau lắm nhưng cố nghiến răng chịu đựng. Mấy đứa còn lại nhờ hai đứa tao xăm giúp nhưng địch lại tấn công, không còn lúc nào rảnh.” – Bình vạch ngực cho chúng tôi xem hai chữ thiêng liêng ấy và cả hình người chiến sĩ giải phóng khoác áo chiến bào, tay xách AK đang trong tư thế xung phong, được xăm trên cánh tay trái. Có thế mới thấy hết sự kiên cường, dũng cảm của đồng đội chúng ta, chiến đấu để giành giữ từng mét đất của Thành cổ Quảng Trị. Bình rít một hơi thuốc thật sâu rồi nói tiếp: “Lính ta đã giữ được Thành cổ trong suốt 81 ngày đêm. Hy sinh cũng nhiều! Chúng mày không thể tưởng tựơng nổi, có thằng bạn sáng nay còn cười cười nói nói, chiều đã nghe tin nó đi. Đến ngày cuối cùng, 27 tháng 7, thằng Cường “mèo” dính đạn. Chính tay tao bế nó về hầm chỉ huy trong Dinh tỉnh trưởng. Nó mất máu nhiều, nặng quá, không qua khỏi. Mà sao lại có sự trùng hợp kì lạ, hôm đó đúng là Ngày thương binh, liệt sĩ?! Rạng sáng hôm sau, bọn tao có lệnh phải rời chốt, vượt sông về bờ Bắc. Đành phải để nó ở lại. Sau đó, lính ngụy vào Thành đã hỏa thiêu tử sĩ và cả thương binh nặng rồi vứt xác xuống sông. Tội lắm! Sau đó, thằng Lâm hy sinh ngày 5 tháng 9, rồi Doanh “mán” đi sau nó hơn chục ngày. Cả đại đội tao hầu như chết hết, Đinh Tuấn cũng trở thành liệt sĩ. Tao và Chính “đen” may mắn lành lặn trở về nhưng người lúc nào cũng hâm hấp sốt, cứ như đi trên mây. Phiêu diêu lắm! Cùng đi với nhau… mà bọn nó… không trở về… Buồn lắm!” – Bình nghẹn ngào, lấy khăn lau nước mắt. Bọn tôi xúc động theo. Lính Trỗi không chỉ có khóa 5, mà cả anh em khóa 6, khóa 7 cũng tham gia Chiến dịch 81 ngày đêm. Nghe nói Y Hoà, em Y Nguyên, cũng hy sinh tại Quảng Trị…

 * * *

 Mới đây, sau hàng chục năm mới bắt liên lạc được với Y Nguyên, anh em được biết rõ hơn: Gia đình đã cất công tìm kiếm Y Hòa nhiều năm nhưng vô vọng. Quảng Trị rộng như thế, nơi nào cũng bị bom B52 và đạn pháo các loại cầy xới nát bét. Xác nhiều chiến sĩ hy sinh đã được đồng đội chôn cất lại bị bom đạn đánh bật lên, chỉ có một số được anh em chôn lại… Có những đồng chí “chết” đến hai, ba lần vì bom đạn giặc cày xới! Lần cuối cùng, gia đình Y Hòa đã lấy một gói đất nơi chiến trường ác liệt năm xưa, coi đó là hài cốt của con em mình, đưa về Nghĩa trang liệt sĩ Buôn Mê Thuột!

Trường hợp liệt sĩ Đặng Bá Linh (khóa 6) cũng khá đặc biệt. Linh hy sinh ngay trận đầu ở Cao điểm 105 Bắc Quảng Trị. Ngày quy tập, do trong túi áo vẫn còn “lọ penecicline”1 nên anh em xác nhận hài cốt Linh đã được cải táng. Anh được quy tập về nghĩa trang liệt sĩ xã Hải Lệ. Không rõ nguyên nhân vì sao thông tin quý báu trong lọ thuỷ tinh bị thất lạc, mộ của Linh cùng nhiều liệt sĩ trở thành khuyết danh. Năm 1993, mộ các liệt sĩ ở xã Hải Lệ được chuyển về nghĩa trang huyện Hải Lăng. Nhưng thật đau lòng vì không biết vị trí mộ liệt sĩ Đặng Bá Linh hiện nằm ở đâu!? Đã nhiều lần, gia đình từ Thành phố ra Quảng Trị nhờ các nhà ngoại cảm chỉ dẫn: đến ngôi mộ số…, hàng…, có vết nứt trên mặt, có con bướm đen bay quanh… thì đúng! Lúc đi tìm mộ phần, hiện tượng xảy ra đúng như chỉ dẫn của thầy, nhưng khi xác minh kĩ thì lại không phải mộ Linh! Rồi anh trai Linh tìm về Cao điểm 105 Bắc, đào lấy một hộp đất mang về, coi đó là một phần máu xương của em mình!

Riêng hài cốt liệt sĩ Bùi Hữu Thích (khóa 1), sau này, được quy tập về Nghĩa trang liệt sĩ huyện Hải Lăng.

 * * *

 Thế là anh em Trỗi chúng ta có sáu người vĩnh viễn nằm lại chiến trường Quảng Trị. Hài cốt có liệt sĩ chưa tìm thấy, có bạn đã tìm thấy nhưng rồi mộ lại trở thành khuyết danh. Năm nay, nghe tin các nhà khoa học đã ứng dụng được “công nghệ gien” để xác nhận liệt sĩ. Hy vọng rằng, trong tương lai không xa sẽ tìm được hài cốt và mộ phần của những liệt sĩ trường Trỗi chúng ta. Thầy trò chúng ta còn hy vọng!

 L.C.H




* - Đại tá, Cục Tác chiến điện tử, Bộ Tổng tham mưu.
1 - Trong chiến tranh, khi chôn cất liệt sĩ ngoài mặt trận, đồng đội phải viết những thông tin (họ tên, ngày hy sinh, đơn vị …) vào mẩu giấy nhỏ, rồi cuộn lại nhét vào lọ penecicline và đậy nút. Sau đó, nhét lọ vào túi áo ngực liệt sĩ, rồi mới chôn cất.



1 nhận xét:

  1. style="Z-INDEX: -1;LEFT: -5px;BOTTOM: -5px;POSITION: absolute;opacity: 0.2;"

    Trả lờiXóa