Chủ Nhật, 25 tháng 12, 2016

Viếng chú Lê Bưởi - thân phụ LS Lê Minh Tân k3

Được Linh - em trai Lê Minh Tân - báo tin, trưa nay, Kiến Quốc, Dương Minh, Tấn Mỹ, Hà Chí Thành đã đến viếng chú tại NTLQP Viện 175. Chú Lê Bưởi mất sau thời gian nằm viện ngắn ngày, thọ 95 tuổi. Chú cũng là thân phụ vợ bạn Trần Vinh Quang k5.
Cô Lục vợ chú chính là cô giáo dạy lớp 1, lớp 2 ở trường HSMN tại Cầu Rào, Hải Phòng mà học sinh là Lê Minh Tấn, Tấn Mỹ, Phúc Chiến, Đồng Hiền, Xuân Lăng... Cô Lục cảm động khi thấy trò cũ Tấn Mỹ tới chia buồn. Cô hỏi: "Thế đứa nào là đứa trèo rào trốn học đi chơi ngày đó?", Tấn Mỹ cười nhận lỗi: "Con đấy... Con còn nhớ chú Bưởi thỉnh thoảng tới trường thăm cô và Tân".
Cô kể vẫn giữ bài viết của tôi đọc hôm đón LS Lê Minh Tân từ miền Trung về, tổ chức tại NTLSTP. Thỉnh thoảng cô vẫn mang ra đọc và nhớ tới con cùng các bạn Trỗi. Đó là ngày 14/5/2007, đã gần chục năm nay.
Hà Chí Thành chia sẻ với cô: "Anh Lê Minh Tân đã là tấm gương và niềm tự hào cho cánh TSQ Nguyễn Văn Trỗi chúng con".

Sáng mai, truy điệu chú lúc 6.30.


FB Tran Kienquoc 25/1262016

Thứ Sáu, 23 tháng 12, 2016

Huyền thoại về người hi sinh cuối cùng

Kỉ niệm 22/12 - Tưởng nhớ các liệt sĩ đã hi sinh vì Tổ quốc

Huyền thoại về người hi sinh cuối cùng


FB Tran Kienquoc 22/12/2016 lúc 8:49 ·
AHLS Phi công Hoàng Tam Hùng - anh trai chị Hoàng Lương Hòa K2

Hoàng Lương Hòa - K2-C11

mb - nr - cq --44 Lý Thường Kiệt---HN-VN
- - -
3AE - Hoàng Lương Hòa K2-C11, Hoàng Tam Ngọc K5, Hoàng Tam Châu K6

1966

28/04/2016

và các bạn Hoàng Tam Ngọc K5

Hoàng Tam Ngọc - K5


mb 01662941079 - nr - cq -- ---HN-VN
- - -
- ACE: 3AE - Hoàng Lương Hòa K2-C11, Hoàng Tam Ngọc K5, Hoàng Tam Châu K6

03/2014

, Hoàng Tam Châu K6

Hoàng Tam Châu - K6

B3
1954

Mb: 0913.235037 - Nr: 080.48395, 258261/3395 - Cq: 043.8387073- FB: - Email: - Blog: http://anh-bantroik6.blogspot.com/2012/10/hoang-tam-chau.html - HN - VN
- - Cục KT Bộ TL Tăng Thiết Giáp Cổ Nhuế -
3AE - Hoàng Lương Hòa K2-C11, Hoàng Tam Ngọc K5, Hoàng Tam Châu K6

9/6/2012

.
AHLS Vũ Xuân Thiều - em trai Thầy Vũ Xuân Thăng

Thầy Vũ Xuân Thăng

CB Chính trị
1937

Mb: 01658730636 - Nr: 043.8236778, 8534832 - Cq: - FB: - Email: - Blog: - HN - VN
- - 2 Đặng Dung (8236778)

2012

(Chính trị) nhà trường và là anh trai Vũ Hữu Nghị k9 Quân sự.


TT - Ngày 28-12-1972 cũng là một ngày mà những phi công chiến đấu VN không thể quên được. Trong cùng một ngày họ đã mất hai phi công ưu tú.

Phi công Vũ Xuân Thiều và Phi công Hoàng Tam Hùng - Ảnh tư liệu


Nhưng họ cũng đã có niềm vinh quang không gì sánh được: đồng đội của họ đã thật sự hạ gục B-52 bằng một cách quả cảm nhất của những phi công huyền thoại.

Buổi trưa ngày 28-12, phi công trẻ tuổi Hoàng Tam Hùng đã hi sinh anh dũng sau khi bắn rơi hai chiếc máy bay Mỹ ngay trong trận đầu xuất kích trên MiG-21, trở thành một trong những phi công Việt Nam bắn rơi hai chiếc trong một trận không chiến. Chiếc RA-5C bị Tam Hùng bắn rơi là chiếc máy bay loại này đầu tiên của hải quân Mỹ bị không quân Việt Nam bắn rơi, bổ sung một loại máy bay trong danh mục các loại máy bay Mỹ bị không quân Việt Nam hạ gục. Trung úy Hoàng Tam Hùng hi sinh khi chưa tròn 24 tuổi

Đêm hôm ấy, Vũ Xuân Thiều vào trận.

Trận đánh của phi công Vũ Xuân Thiều đêm 28-12

Theo tin tình báo, đêm 28-12, lúc 21g30-23g50, sẽ có 50 lần/chiếc B-52 vào đánh phá Hà Nội, Hải Phòng. Bộ Tư lệnh không quân yêu cầu tất cả các sở chỉ huy và các đơn vị trực chiến phải theo dõi chặt chẽ và sẵn sàng cất cánh chiến đấu. Trong khi đó, phi công Vũ Xuân Thiều trực ban chiến đấu tại sân bay Cẩm Thủy; phi công Đinh Tôn trực ban chiến đấu ở sân bay Nội Bài đã sẵn sàng.

Lúc 21g28, tốp B-52 thứ hai rồi thứ ba xuất hiện ở đông nam Pạc Xan 90km. Tại sở chỉ huy tiền phương, phó tư lệnh Trần Mạnh nhận định đây chính là các tốp B-52 bay vào đánh Hà Nội. Ông lệnh cho các sĩ quan dẫn đường và quân báo theo dõi chặt diễn biến của tốp máy bay này, đồng thời lệnh phi công Vũ Xuân Thiều chuẩn bị cất cánh.

Lúc 21g41, Vũ Xuân Thiều được lệnh cất cánh từ sân bay dã chiến Cẩm Thủy (người trực chỉ huy tại sân bay Cẩm Thủy là đại tá, phi công Hoàng Biểu, một trong những phi công bay đêm dày dạn kinh nghiệm). Sở chỉ huy Thọ Xuân cho Thiều đi hướng tây để sẵn sàng đón đánh tốp B-52 vào theo hướng này. Tại sở chỉ huy tiền phương, phó tư lệnh Trần Mạnh và kíp trực nhận định đội hình B-52 bay từ Thái Lan lên hướng bắc, khi đến Sầm Nưa sẽ vòng lên Mộc Châu, tiến vào đánh phá Hà Nội. Kíp chỉ huy tính toán và quyết định dẫn MiG vào đánh B-52, đồng thời lệnh Vũ Xuân Thiều lấy độ cao, bay tránh tốp tiêm kích hộ tống.

Lúc 21g52, Sc B-1 (Thọ Xuân) lệnh Thiều vòng phải, bay hướng 360 độ, thông báo mục tiêu phía trước 50 độ, cự ly 15km, nhưng do nhiễu quá nặng, Vũ Xuân Thiều vẫn chưa phát hiện được mục tiêu. Lúc này tại sở chỉ huy, sĩ quan dẫn đường trên hiện sóng rađa Trần Xuân Mão, bằng kinh nghiệm của mình đã phát hiện chấm trắng đục giữa nền nhiễu, anh khẳng định đó là B-52, chúng đã đổi hướng, bay ngược lên Sơn La rồi mới vòng xuống đánh phá Hà Nội. Sở chỉ huy lập tức lệnh Thiều vòng phải gấp, bay hướng 90 độ, qua Sầm Nưa, lên hướng bắc đuổi theo tốp B-52 đang bay về hướng Nà Sản, Sơn La.

Giây phút cảm tử

Nhận định của sở chỉ huy hoàn toàn chính xác. Lúc 21g58, khi đến Sơn La, Vũ Xuân Thiều phát hiện mục tiêu, anh lập tức báo cáo và tăng tốc độ bám sát. Trong bầu trời tối đen, rađa lại bị nhiễu rất nặng nên rất khó phán đoán cự ly, nhưng Thiều đã bình tĩnh phán đoán cự ly bằng mắt, theo tín hiệu đèn hàng hành của B-52. Lúc này tại sở chỉ huy tiền phương phó tư lệnh Trần Mạnh nhắc: “046 bật công tắc bắn cả loạt, kiên quyết tiêu diệt địch”. Phi công Vũ Xuân Thiều trả lời: “Nghe rõ!”.

Anh tiếp tục bám theo mục tiêu, khi thấy âm lượng đầu tên lửa bắt mục tiêu tốt và cự ly có thể phóng hiệu quả, anh ấn nút phóng ra hai quả tên lửa. Chiếc B-52 bùng cháy, rơi xuống gần khu vực bản Cò Nòi, Sơn La. Sau đó, sở chỉ huy mất liên lạc với Thiều. Lúc này từ sở chỉ huy B-1 liên tục gọi: “046 công tác tốt không?” nhưng không thấy tín hiệu trả lời của Thiều. Cả sở chỉ huy im lặng, hồi hợp chờ đợi tín hiệu trả lời của Thiều, nhưng đó là sự im lặng vĩnh viễn. Với kinh nghiệm và linh cảm của người chỉ huy, phó tư lệnh Trần Mạnh và phó tư lệnh Trần Hanh đều hiểu có điều gì đó không bình thường nhưng rất phi thường đã xảy ra. Trong đầu cả hai ông lóe lên ý nghĩ có thể do cự ly phóng tên lửa quá gần (do ban đêm rất khó ước lượng cự ly bằng mắt), sau khi phóng hai quả tên lửa trúng mục tiêu, máy bay của Thiều đã lao thẳng vào chiếc B-52.

Vũ Xuân Thiều hi sinh anh dũng sau khi hạ chiếc B-52 trên vùng trời Cò Nòi, Sơn La. Xác chiếc B-52 và các mảnh vỡ của chiếc MiG cùng rơi tại đây.

Quân chủng Phòng không - không quân đã xác minh và công nhận phi công Vũ Xuân Thiều hạ tại chỗ một chiếc B-52 tại vùng trời Sơn La.

Lúc 21g48, tại sân bay Nội Bài, phi công Đinh Tôn nhận lệnh cất cánh. Sau khi rời đất, anh được dẫn ra Hòa Bình - Suối Rút, rồi lên bắc Mộc Châu để chặn đánh tốp B-52 đang bay về hướng Phù Yên. Lúc 22g04, Đinh Tôn phát hiện thấy đèn hàng hành của đội hình B-52, nhưng sau đó lại mất vì góc vào quá lớn. Sở chỉ huy cho vòng phải bay hướng 90 độ để cắt vào phía sau mục tiêu, nhưng do tốp B-52 đã phát hiện có MiG bám theo nên tắt đèn hàng hành và cơ động tránh MiG. Đồng thời Đinh Tôn phát hiện nhiều tiêm kích Mỹ đang bám phía sau. Thấy tiếp tục bám theo không có lợi, sở chỉ huy cho giảm độ cao, hướng 360 độ, thoát ly về hạ cánh an toàn tại Nội Bài.

Quân chủng đã tổ chức một đoàn cán bộ do phi công Phạm Ngọc Lan dẫn đầu lên xã Tạ Khoa, huyện Yên Châu, Sơn La để nắm tình hình. Cùng với đại úy Phạm Đức Thuận, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn bộ binh đang đóng quân tại Cò Nòi, đoàn cán bộ đã đến tận hiện trường để xác minh. Đứng trên đỉnh đồi, các cán bộ không quân nhìn thấy bên kia quả đồi là xác chiếc B-52 với các mảnh vỡ cháy sém, phía bên này đồi là các mảnh máy bay MiG-21 trắng bạc. Khi quan sát trực tiếp hiện trường, thiếu tướng, phi công Phạm Ngọc Lan chợt lóe lên ý nghĩ: “Chiếc MiG của Thiều đã húc (taran) vào B-52, với tinh thần cảm tử, quyết tiêu diệt B-52”. Trên bầu trời tối đen của đêm 28-12 mùa đông, không ai nhìn thấy những giây phút cuối cùng của cuộc chiến quyết tử đã diễn ra thế nào, nhưng những gì mà đoàn cán bộ nhìn thấy ở hiện trường đã minh chứng rõ ràng cho chiến công của phi công Vũ Xuân Thiều.

Tối 27-12-2012, nhân kỷ niệm 40 năm ngày hi sinh của phi công Vũ Xuân Thiều, thiếu tướng Phạm Ngọc Lan (người được cử lên địa điểm nơi Thiều bắn rơi B-52 đêm 28-12-1972) đã kể lại:
“... Ngay tối 28-12-1972, lúc khoảng 12g đêm, tôi nhận được điện từ sở chỉ huy giao dẫn đầu đoàn cán bộ lên địa điểm nơi phi công Vũ Xuân Thiều bắn rơi B-52 tại Sơn La để nắm và xác minh tình hình. Đoàn chúng tôi lập tức khởi hành trong đêm và lên đến nơi vào sáng hôm sau. Khi đến nơi, tôi có gặp các chiến sĩ bộ binh đóng quân tại khu vực, mọi người đều nói tối hôm qua thấy hai bó lửa rất to bùng cháy và rơi xuống. Các chiến sĩ của tiểu đoàn bộ binh đã dùng ngựa đưa tôi leo lên quả đồi gần nơi máy bay MiG của Vũ Xuân Thiều bắn rơi B-52. Đứng trên đồi chúng tôi nhìn thấy xác B-52 cháy sém một phía, phía bên kia quả đồi là xác chiếc MiG màu ánh bạc. Chúng tôi còn nhặt được hai mảnh xác máy bay MiG và B-52 găm vào nhau, đó là dấu hiệu cho thấy máy bay của Thiều đã lao vào chiếc B-52. Tôi lập tức điện về báo cáo tình hình cho Bộ tổng tham mưu và Quân chủng Phòng không - không quân: “Chúng tôi đã đến hiện trường, sờ được xác máy bay B-52, chính xác Vũ Xuân Thiều đã bắn rơi ở cự ly gần và lao vào chiếc B-52, tôi sẽ mang hai mảnh xác máy bay găm vào nhau về báo cáo”. Với kinh nghiệm nhiều năm chiến đấu và chỉ huy chiến đấu, tôi linh cảm rằng trong giây phút cuối cùng Vũ Xuân Thiều đã quyết tử để quyết tâm tiêu diệt B-52”.
Vũ Xuân Thiều và Hoàng Tam Hùng là hai phi công cuối cùng hi sinh trong cuộc chiến bảo vệ vùng trời Việt Nam.


TS NGUYỄN SỸ HƯNG và nhóm tác giả


Tuổi Trẻ Online, 26/12/2013 11:05


Xem video Phim tài liệu: Hoàng Tam Hùng - lặng thầm cùng lịch sử - Ðài truyền hình Hà Nội - HTV - HanoiTV, 30/12/2014 17:22

Bút tích cuối của anh hùng Vũ Xuân Thiều - Quang Thành, 14 Tháng 12, 2012, BÁO ĐIỆN TỬ GIA ĐÌNH & XÃ HỘI. |

Thứ Tư, 21 tháng 12, 2016

MONG MẸ THA!

BÀI VIẾT ĐƯƠC TRÍCH TỪ LÁ THƠ CỦA LIỆT SỶ NGUYỄN VĂN NGỌC

Nguyễn Văn Ngọc - K4-5



1968 - Liệt sĩ, hy sinh: 10-10-1968, Thành phố Vinh
mb - nr - cq -- ---?-VN
Liệt sĩ - - -

GỬI CHO MẸ!-- lá thơ bạn Kiến Quốc k5 đang giữ
NGỌC [ K4 + K5 ] TRƯỜNG THIẾU SINH QUÂN --THÁNG 10 NĂM 1968 HY SINH TẠI THÀNH VINH NGHỆ AN
Kỷ niệm 48 năm ngày NGOC hy sinh 10-10 -1968



MONG MẸ THA!
Đêm nay con hành quân xa
Cả đơn vị cùng vào khu BỐN
Nơi là chốn xa xôi
Là lính đâu có giặc có chúng con
Với cả quyết tâm cao...
Không ngại hy sinh và gian khó
Ở đó có đồng đội cùng anh em
Đêm hành quân đơn vị cách nhà chỉ 500m
Nhưng con vẫn không về thăm mẹ được
Vì là pháo phòng không
Luôn hành quân ĐÊM
Để che mắt quân thù
Mà không sao về thăm mẹ được
Dù cho phải xa mẹ cha...
Mẹ kính nhớ con xin mẹ THA
Cho đứa con bé nhỏ ngổ nghịch ngày nào
Chớ buồn lo cho đứa con sắp vào trận
Tất cả điều do cuộc chiến Mỹ gây ra
Là chiến sỹ con xin hứa quyết diệt thù
Dù đường gần nhưng lai xa
Là nghệ -An quê con đó..!
Có lần hành quân trong đêm
Con biết nhà ngoại cách đó 500m
Mà không sao về thăm ngoại được
Vì chúng con còn phải hành quân xa.?
VĨNH BIỆT MẸ HIỀN.!
lần cuối con viết lá thơ nầy
Chờ ngày thống nhức con gặp mẹ
Nhưng thôi rồi mẹ kính yêu
Trời không cho con gặp mẹ nữa
Lửa căm thù uất hận tim con
Lá thư đây là lá thư cuối cùng
Con cuối đầu xin mẹ THA
Con đã hy --sinh rồi mẹ ơi.!
Tuổi già mẹ con không lo được
Đã có toàn dân và em con lo
Con chỈ có một ước nguyện
Khi dân ta thống nhứt nước nhà
Mẹ đưa con về lại thủ-Đô
Nơi ấy có thầy cô và bè bạn
Con cũng lại về nhà ta ...
Như chưa hề có cuộc chia ly
Mẹ cũng đừng buồn cho con nữa
Mẹ chỉ coi như con đang ngủ
Một gất ngủ ngàn Thu ...
Có gió có mưa ru con ngủ
Dù có gì đi chăng nữa
Kiếp sau con xin lại làm con mẹ mẹ hiền!

--TẤN--MỸ TÔ-- HOÀNH BẠN CHIẾN ĐẤU ;. CÙNG BẠN BÈ THẦY CÔ TRỔI .
Luôn nghĨ nhiều và nhớ NGUYỄN VĂN NGỌC 'K4 + K5'

FB Tấn Mỹ 21/12/2016

Chủ Nhật, 18 tháng 12, 2016

Về trường hợp hi sinh của Liệt sĩ Ngô Ngời

Đăng lại bài viết của các anh Trungsy1 và Hũu Thành K4 về lần thăm mẹ Liệt sĩ Ngô Ngời cuối tháng 1/2013, cùng lời góp của anh Thủy (thuybeuK4) về trường hợp hi sinh của Liệt sĩ Ngô Ngời

Trungsy1
31-01-2013, 09:49 AM,
Trang chủ Khúc Quân Hành > Diễn đàn > Câu Lạc Bộ Chiến Sỹ > CLB Phượt > Tây Nguyên - Miền Trung tháng 1/2013

Chúng tôi đến thăm một mẹ Liệt sỹ ở huyện Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Bà là mẹ trung uý xe tăng Ngô Ngời, bạn học của anh Huuthanh, anh Phongquang.

Liệt sỹ Ngô Ngời thuộc lữ đoàn xe tăng 273, quân đoàn 3, hy sinh tháng 7 năm 1979, trong cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam. Tiền thân lữ đoàn xe tăng này chính là tiểu đoàn xe tăng 297 thuộc B3, với kíp xe 377 của liệt Sỹ Nguyễn Nhân Triển trong trận Đăk Tô, mà anh Lixeta đã kể ở bài trước.

Ngôi nhà nhỏ, nơi bà đang sống

Thứ Bảy, 17 tháng 12, 2016

Một trăm người lính xe tăng - Ngày ấy bây giờ

Nguyễn Thế Tường
BÁO CÔNG AN NHÂN DÂN
11:09 17/12/2016

Đó là 100 sinh viên thuộc các trường đại học ở Hà Nội nhập ngũ và tham chiến bốn năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ngày 17-12-2016, tại Bảo tàng Quân sự, Ban liên lạc những “sinh viên Tăng - Thiết giáp” thuở ấy sẽ làm lễ kỷ niệm 45 năm ngày về binh chủng.


Ra đi từ những giảng đường

Ngày 6-9-1971, đáp lời kêu gọi của đất nước, chừng 3.500 sinh viên các trường Đại học Tổng hợp, Đại học Bách khoa, Đại học Nông nghiệp, Đại học Y... khu vực Hà Nội nhập ngũ, hình thành nên Sư đoàn 325B. Sau đúng 3 tháng huấn luyện bộ binh, một số chuyển sang huấn luyện tiếp ở các binh chủng. 100 tân binh chuyển sang binh chủng Tăng - Thiết giáp, hình thành nên 4 lớp đầu tiên của trường Hạ sĩ quan - tiền thân của trường sĩ quan Tăng - Thiết giáp ngày nay.

Trong số này, có khá nhiều tân binh nguyên là học sinh các trường miền Nam, nhiều người sinh trưởng ở Hà Nội, các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, khu bốn cũ... Trường đóng ở Km thứ 8 tính từ thị xã Vĩnh Yên lên Tam Đảo nên gọi là “Phố Tám”.

Là sinh viên nên sinh hoạt ngoài giờ huấn luyện cũng có nét đặc thù. Chơi đàn sáo, hát nhạc vàng, đọc tiểu thuyết hay thơ tình cũng khiến các chỉ huy phiền lòng. Đổi lại, có một không khí tri thức hiện hữu trong đơn vị. Bốn mươi năm sau, gặp lại, các chỉ huy bây giờ về già thú nhận rằng, khi mới nhận quân về đã cảm thấy “lực lượng này khó gặm”, nhưng khi đã hòa đồng với nhau thì chính các vị chỉ huy cũng tiếp thu được từ những sinh viên Hà Nội nhiều điều mới mẻ...

Đây là những lớp đào tạo hạ sĩ quan Tăng - Thiết giáp chính quy trong nước đầu tiên, chương trình khá nặng. Một trăm học viên chia thành 4 lớp: 2 lớp đào tạo trưởng xe và 2 lớp kỹ thuật viên. Cuối tháng ba, 20 học viên được gọi riêng, hối hả huấn luyện lái xe cấp một và tung ngay vào chiến trường Quảng Trị. Ba tháng sau, số còn lại cũng tốt nghiệp, lập tức bổ sung cho các đơn vị lần lượt vào chiến trường.

Âu, cũng là lẽ thường của người lính, trai thời loạn.

Kể từ khi có lính sinh viên tham gia binh chủng, không khí huấn luyện và chiến đấu của lực lượng đột kích này thay đổi hẳn. Các cựu sinh viên tiếp thu rất nhanh cả lý thuyết và thực hành trên bãi lái, trên máy móc liên lạc, sa bàn chỉ huy chiến thuật. Nhiều sinh viên là con em cán bộ cao cấp, lẽ ra đang được học ở nước ngoài và các trường danh giá trong nước, lại đang hăng say huấn luyện, sẵn sàng hiến thân cho Tổ quốc.

Các cựu chiến sỹ - sinh viên gặp mặt nhân ngày truyền thống.



Tham chiến

Toàn bộ 100 người lính sinh viên Tăng-Thiết giáp ấy đều ra trận, từ chiến dịch đầu tiên giải phóng Quảng Trị đến chiến dịch cuối cùng giải phóng Sài Gòn. 14 người hy sinh, 1 đến nay còn mất tích. Nguyễn Tư Thảo, người Hà Nội, sinh viên Bách khoa, hi sinh đầu tiên, ngay trên đường hành quân, vừa tròn 10 tháng tuổi quân. Phùng Anh Dũng, học sinh miền Nam, quê Phú Yên, hi sinh tại Ái Tử trong chiến dịch Quảng Trị tháng 10-1972, tròn 1 tuổi quân.

Nguyễn Tự Chính, quê Phú Yên, học sinh miền Nam, sinh viên Bách Khoa, vạm vỡ cân đối như một võ sĩ, chỉ huy trung đội Tăng sáng 1-4-1975 giải phóng Tuy Hòa. Xe dừng bên sông, Chính mở cửa ngắm thành phố quê hương mà anh mới nhìn thấy lần đầu tiên trong đời. Bất ngờ, một loạt đạn bộ binh bay tới, một tên lính bắn trộm, Chính gục trên tháp pháo. Đinh Quang Việt, quê Nam Định, Việt kiều về nước năm 1962, sinh viên Đại học Tổng hợp, hiền khô, đẹp trai như một hoàng tử.

Tháng 4-1974, Việt chỉ huy trung đội ba chiếc tăng tham dự trận Rinet-Kiến Điền ở Bình Long. Xe trúng đạn, Việt hy sinh ở tuổi 22. Nguyễn Văn Tư, sinh viên Bách Khoa, quê Hưng Yên, sinh trưởng Hà Nội - một chàng trai tài hoa và rất giỏi bếp núc, có biệt danh là Tư Cầu Muối, Tư Tỏi; mẹ công tác ngay trong trường. Phan Trung Khoa, quê Quảng Bình, học cùng lớp, đem lòng yêu em gái Tư. Hai anh em rể (tương lai) là sinh viên Bách khoa, cùng nhập ngũ, cùng sang Tăng –Thiết giáp và cùng hy sinh.

Sáng 30-4-1975, Đại đội trưởng Nguyễn Văn Tư dẫn đầu đơn vị đánh đến ngã tư Bảy Hiền thì xe trúng đạn. Cả kíp xe hy sinh. Khoa hy sinh ở Xuân Lộc... Cả 14 sinh viên chiến sĩ Tăng - Thiết giáp đều hy sinh trong chiến đấu...

85 chiến sĩ còn lại, nhiều người còn mang thương tích trên mình. Sau 1975, một số ít được giữ lại phục vụ trong lực lượng, thành sĩ quan cao cấp; có người thành Giáo sư, Tiến sĩ. Đa số trở về trường cũ học tiếp những năm cuối. Tất cả đều tốt nghiệp đại học, không có bất kỳ một “sa sẩy” nào trong suốt quá trình rèn luyện, chiến đấu, cũng như khi trở về trường.

Mỗi năm, vào ngày 6-9, họ cùng những sinh viên nhập ngũ cùng đợt năm 1971 tập hợp kỉ niệm ngày thành lập sư đoàn tân binh sinh viên đầu tiên.

Đôi điều day dứt

“Quốc gia hưng vong/ Thất phu hữu trách”. Đất nước có chiến tranh, những thanh niên sinh viên ngày ấy gác bút nghiên ra trận là trách nhiệm, niềm tự hào và đã được Đảng - Nhà nước ghi công xứng đáng. Thực tế chiến tranh cũng góp phần rèn giũa họ. Nhưng, với những đồng đội hy sinh, “công cuộc” tìm dấu tích liệt sĩ còn nhiều day dứt, nhiều chi tiết liêu trai. Người lính Tăng - Thiết giáp hy sinh trong chiến đấu thường thi hài khó nguyên vẹn, nhiều người chỉ còn tro trắng vì sức nóng, việc tìm hài cốt nhiều khi biết là vô vọng.

Vũ Văn Thành được giao nhiệm vụ chiến đấu ở Chơn Thành. Nguyễn Văn Chuyền, trợ lý tác chiến, bạn cùng trường, sau khi giao nhiệm vụ cho Thành, đêm về nằm thao thức nhớ đến tích cũ Bàng Thống - Phượng Sồ mất ở gò Lạc Phượng mà lo, vì cái địa danh Chơn Thành phát âm theo tiếng Nam Bộ sao mà giống “chôn Thành”. Ngay sáng hôm sau, từ đài quan sát, Chuyền tận mắt chứng kiến xe Thành xuất kích và trúng đạn, cả kíp xe không ai sống sót.

Liệt sĩ Ngô Ngời, sinh viên Bách Khoa, hy sinh sau cùng. Ngời nguyên là học sinh miền Nam, sau 1975, chưa vội trở lại trường, mà còn tham chiến ở mặt trận Tây Nam. Ngày 1-7-1979, Ngời được tin ba anh, cũng là cán bộ Quân đội sẽ ghé thăm. Anh chỉ kịp nhắn lại là đánh xong trận, cha con sẽ thong thả hàn huyên. Nhưng đã không có ngày “Phụ tử sum vầy” ấy.

Sinh thời, Tiến sĩ Phùng Thị Thanh Tú là chị ruột của liệt sĩ Phùng Anh Dũng vẫn phàn nàn nhiều về thái độ không nhiệt tình của một số địa phương và đơn vị khi chị đi tìm mộ em trai. Trong lần đi cuối cùng ra Quảng Trị, tình cờ Tiến sĩ gặp một phụ nữ cũng đi tìm mộ chồng. Ngay lúc ấy có con bướm rất lớn cứ chập chờn trước mặt rồi bay đi. Linh tính báo, chị đi theo con bướm vào nghĩa trang và tìm được mộ Dũng.

Liệt sĩ Nguyễn Văn Tư, sinh trưởng Hà Nội, quê cha Hòa Bình, quê mẹ Hưng Yên. Cha mất sớm, mẹ về lại quê an dưỡng tuổi già. Đưa được nắm tro của Nguyễn Văn Tư về Hưng Yên phải đổi sang họ mẹ mới được vào nằm trong nghĩa trang quê mẹ. Nấm mộ của Tư bây giờ mang họ Đặng.

Liệt sĩ Đinh Quang Việt bây giờ có đến bốn ngôi mộ. Vì một sơ suất mà hiện nay có đến hai ngôi mộ mang tên Việt và một ngôi mộ gió ở nghĩa trang Bến Cát. Nơi hài cốt anh yên nghỉ thật sự cũng chưa tìm được. Cách nay đúng 20 năm, phiên hiệu Trường Đại học Tổng hợp giải thể chia thành hai trường nằm trong Đại học Quốc gia. Bây giờ, hằâng năm, kỉ niệm ngày nhập ngũ, cựu sinh viên cựu chiến binh nhập ngũ các đợt trong chiến tranh không có “đất” để tổ chức, phải đi “đứng nhờ”các trường bạn...

Cuộc kháng chiến giải phóng miền Nam thống nhất đất nước càng ngày càng lùi xa vào lịch sử. Cuộc sống thời hiện đại có nhiều giá trị đang bị xáo trộn. Trên đất nước hiện có tới hàng trăm trường đại học, hàng triệu sinh viên. Tôi vẫn gặp cậu thanh niên láng giềng 22 tuổi, mới tốt nghiệp đại học, đang chờ bố mẹ xin vào làm cơ quan nhà nước; thanh niên khác, thường ngồi quán cà phê đốt thuốc lá, 23 tuổi, ra trường một năm chưa có việc làm.

Chợt chạnh lòng. Tuổi ấy, sinh viên Đại học Tổng hợp Đinh Quang Việt đã chỉ huy một trung đội xe Tăng xung trận; sinh viên Bách khoa Nguyễn Văn Tư dẫn đầu đại đội lăn xích vào cửa ngõ Sài Gòn và anh dũng hy sinh... Một người thì “đứng tên” đến ba nấm mộ mà thân xác chưa tìm thấy; một người phải đổi họ để nắm tro tàn được về với mẹ...

Nguyễn Thế Tường



BÁO CÔNG AN NHÂN DÂN - 11:09 17/12/2016

Thứ Sáu, 16 tháng 12, 2016

Ngô Ngời trong kí ức của những người lính xe tăng

Cảm động cuộc hội ngộ của những người lính xe tăng

Uyên Na
Báo Pháp luật Việt Nam điện tử
Thứ Ba, 22/3/2011 08:51.

Những ngày tháng ba, có một cuộc hội ngộ của những người lính xe tăng 273 tại nơi những vết xích xe tăng đầu tiên chuyển từ ga Vĩnh Yên về trường Sỹ quan Tăng thiết giáp của hơn 50 năm trước. Những người lính can trường năm xưa “đã ra quân là đánh thắng”, có người 36 năm, có người trên 40 năm mới gặp lại đồng chí, đồng đội mình…

Cuộc hội ngộ của những người lính 273



Những người lính tên Quê

36 năm đã trôi qua nhưng trong chúng ta, có lẽ không ai có thể quên hình ảnh hai chiếc xe tăng mang số 843 và 390 dẫn đầu đội hình, húc tung các cánh cổng sắt tiến thẳng vào Dinh Tổng thống Ngụy quyền Sài Gòn lúc 10h45 phút ngày 30/4/1975. Đại đội trưởng Đại đội xe tăng 4 - Trung úy Bùi Quang Thận đã cắm lá cờ chiến thắng trên nóc Dinh Độc Lập...
Đó chỉ là chiến công trong hàng loạt chiến công oanh liệt của Binh chủng Tăng Thiết giáp trong kháng chiến, từ trận mở đầu ở Tà Mây- Làng Vây cho đến chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn Miền Nam… góp phần quan trọng vào chiến thắng chung của cả dân tộc.
Ngày ấy, những người lính trẻ vào Tây Nguyên khi tuổi chớm 20. Trong kí ức những người lính đó là những mùa mưa mù trời, những ngày mưa dầm dề không thể nấu cơm, lính tăng tếu táo khỏa lấp nỗi buồn kể chuyện tiếu lâm cười kha kha và hỏi nhau: “Mày tỉnh nào?” để thấy ấm áp hơn dù chỉ là đồng hương người Bắc.
Rồi chẳng hiểu tự lúc nào, chỉ riêng những người lính tăng đã quên đi cái tên thân thuộc của mình và chỉ gọi nhau bằng Quê, anh Quê, thằng Quê… hàm ý rằng tất cả anh em đồng đội là người một nhà, thân yêu như quê hương mình vậy. Có người thì nhớ về tình quân dân với đồng bào Tây Nguyên, đó là những vạt sắn, rau tàu bay, những gùi măng dấu bên vệ đường chờ bộ đội mình...
Và trong chiến dịch Đăc Tô - Tân Cảnh mùa xuân 1972, đường ô tô không sử dụng được nhiều vì địa hình, vì máy bay Mỹ, vì bí mật chiến trường, họ phải giấu xe vào hầm ếch xuyên sườn núi, còn người thì nào gùi, nào thồ bằng xe đạp, nào vác gạo, cõng đạn ra mặt trận. Ghé vai cùng bộ đội là già trẻ gái trai người Êđê, M’nông, Gia rai... với mảnh khố, chiếc váy tuềnh toàng, cái bụng lép kẹp vì thiếu muối, đói cơm mà cõng đạn chuyến sau nặng hơn chuyến trước. Có cô gái còn gùi hàng trăm kilôgam hàng một chuyến…

Nghĩa tình đồng đội

Nhưng trên tất cả, họ thấm thía hơn ai hết những mất mát hy sinh, bởi họ đã kinh qua những trận đánh sống còn xuyên suốt Buôn Mê Thuột, tiến về Dinh Độc Lập trong ngày thống nhất đất nước. Bởi ở đó có tuổi trẻ, máu xương của họ và đồng đội nằm lại.
Trong những câu chuyện của người lính xe tăng, một người bạn đã khuất luôn được nhắc tên, đó là anh Ngô Ngời - sinh viên năm thứ hai Đại học Bách Khoa - là con em miền Nam tập kết ra Bắc. Ngày 6/9/1971 anh cùng 3.000 sinh viên “kẻ sỹ Bắc Hà” trở về miền Nam chiến đấu. Rồi anh trở thành Đại đội phó kỹ thuật và chính là người nổ phát súng đầu tiên giải phóng Buôn Mê Thuột và nhiều cái tên khác nữa, mãi mãi không thể xóa nhòa trong tim những người lính 273.
Cựu chiến binh Phạm Gia Vĩnh, nguyên Trưởng ban Tác chiến của trung đoàn bùi ngùi: Có ngày hôm nay chúng ta phải mất bao nhiêu máu xương của đồng đội, bao nhiêu đồng chí đã nằm lại ở những nẻo đường thân yêu của đất nước. Và thay cho tình cảm những người đồng đội, ông Vĩnh nhờ hương trời, gió biển gửi tới những người lính đã nằm lại những dòng thơ nghẹn ngào:
“Tôi đi tìm anh
Đến tìm anh sau giờ chiến thắng
Nỗi đau thương
Bên xác pháo nghi ngút
Nghi ngút bóng đất trời có bóng hình ai
Anh ơi, ánh thép rực hồng
Đưa anh về với núi sông quê nhà".

Chứng kiến cuộc gặp gỡ đầy cảm động này, tôi hiểu, đối với người lính, không phải thời gian trong quân đội là vài tháng hay cả cuộc đời mà một khi đã khoác lên mình màu áo lính, họ đã coi nhau như ruột thịt, không thể xóa nhòa. Dù cho, khi chiến tranh đã đi qua, có thể hạnh phúc thật nhỏ nhoi như khi người mẹ cầm được nắm xương con, người vợ thắp được nén nhang nơi anh đã ngã xuống, và đồng đội tìm được mộ phần bạn mình để nghẹn ngào gọi: “Quê ơi".

Uyên Na


Cựu chiến binh Nguyễn Tiến Thưởng - nguyên Chính trị viên Lữ đoàn 273 nghẹn ngào: “Những địa danh Đắc Tô, Tân Cảnh, Kon Tum, Cheo Reo, Phú Đồn… đã là người lính 273 không ai không nhớ những chặng đường của một thời oanh liệt, những trận đánh đã đi vào sử sách. Đó là Đại đội trưởng Đại đội 9 Trương Công Đạo mở màn ở trận Cầu Bông đã dùng xe tăng E41 nghi binh để mở đường cho đoàn quân tiến vào giải phóng Sài Gòn trong ngày 30/4 lịch sử. Và trong những giờ phút ác liệt ấy tôi không thể quên có 7 xe tăng đã bốc cháy cùng mấy chục đồng đội đã hy sinh trong những giờ phút cuối cùng trước giờ chiến thắng”.

Uyên Na


Báo Pháp luật Việt Nam điện tử - Thứ Ba, 22/3/2011 08:51.

Thứ Ba, 6 tháng 12, 2016

Viếng mộ bạn Liệt Sỹ Nguyễn Đức Thảo





Sáng hôm nay, Chủ nhật 4/12/2016, nhằm "Một ngày đẹp trời nắng Đông bừng lên, không gợn bóng mây". Anh em chúng tôi, hơn chục thằng K7 TSQ - NVT đã làm chuyến vi hành về Đại Từ, thăm Gia đình bạn Ngọc Văn. Trên đường đi, chúng tôi đã vào thăm Gia đình Vợ Chồng Thầy Phảng, Cô Quỳnh. Thầy Phảng nguyên là Cán bộ phụ trách chung thân B4 từ khi thành lập cho tới ngày giải tán. (Sau Thầy về Trường VH Lạng Sơn). Cô Quỳnh là Chị nuôi K6, khi sang Quế Lâm - TQ, Cô về bộ phận Tiếp phẩm của Trường. Ngoài ra còn vào thăm bạn Dương Bằng Hà (Con Bác Dương Đại Lâm). Hiện cũng sống tại Thái Nguyên.

Trên đường đi, các bạn K7 đã vào nghĩa trang Liệt sỹ TP Thái Nguyên viếng mộ & thắp hương cho bạn: LS Nguyễn Đức Thảo (Thảo "bự", B5), hy sinh tại mặt trận Cam Pu Chia, sau được GĐ đem về an táng tại quê nhà.

Cùng đi với AE K7 còn có anh Bùi Vinh, Trưởng BLL Trường, các bạn K9. Đặc biệt có cả các anh nguyên là & hiện nay đang là BT, CT xã Yên Mỹ nơi Trường NVT đã sống & học tập.

Xin Cám ơn sự đón tiếp nồng hậu, nhiệt tình của Vợ Chồng bạn Ngọc Văn & của Gia đình Thầy Phảng - Cô Quỳnh. Xin hẹn gặp lại.






Ha Quangvu
Từ trái qua phải,
- Hàng ngồi: Đại diện ĐY & CQ Xã Mỹ Yên, Vũ "Xồm", Ngọc Văn, Tráng "Mèo", Thanh Sơn, Minh "Thép" & Đoàn "Điếu".
- Hàng đứng: Thắng "Hói", Vợ Ngọc Văn, Cô Quỳnh (Vợ Thầy Phảng), Bằng Hà, đại diện ĐY & CQ xã, Thầy Phảng, Tạ Chiến, a.Quang (Nguyên BT ĐY xã), Trần Đào Điện Biên, a.Bùi Vinh (BLL Trường), Thanh "Loe" & Thái "Lẹo".



Nguồn: FB Ha Quangvu, 4 Tháng 12 lúc 16:56

Ha Quangvu 5 Tháng 12 2016

Chủ Nhật, 4 tháng 12, 2016

Trịnh Thúc Doanh trong hồi ức của "Lính Sinh Viên"


Dựng nước - Giữ nước > Máu và Hoa > Một thời máu và hoa (Các quản trị: quansuvn, binhyen1960) > Lính vệ binh


linh71 Thành viên
27 Tháng Sáu, 2012, 11:44:31 AM

Tháng 8 năm 1971, vừa nghỉ hè năm thứ nhất quay lên trường thì nhận được giấy báo khám NVQS từ tay bà Định giáo vụ khoa. Thế là cả lũ con trai của khoa và của cả trường ùn ùn xuống trạm xá nhà trường khám tuyển. Sau khi nhận được tờ kết luận "sức khỏe B1" tôi linh cảm mình sẽ trở thành người lính. Thế là tôi cùng với Vũ Hồng Phong, Hoàng Đình Giang - 3 anh em cùng khóa K15 VTĐ ĐHBK cùng quê HP nhảy tàu hỏa trốn về nhà.
[...]

Tối ngày 5-9 trường tổ chức liên hoan tiễn chân các SV lên đường nhập ngũ. Bí thư ĐU trường Bùi Nguyên Cát phát biểu "... chúc các đồng chí lên đường... Nhà trường sẽ rải thảm đỏ đón các đồng chí trở về..." Ăn xong nháo nhào chạy lên nhà B5 (KTX nữ) tìm cô bạn gái mà không gặp! Nó là cái điềm "không xong rồi"! Sáng hôm sau tập trung ở sân C2 để lên đừng. Hàng chục xe Hải âu đã chờ sẵn. Sân trường đông nghịt người. Người đi. Người đi tiễn. Tôi lên xe, thẫn thờ nhìn biển người loang loáng trước mắt... Xe nổ máy chuẩn bị chuyển bánh thì cô bạn tôi nhào tới, chỉ nói mỗi câu "Hùng ơi", dúi vào tay tôi chiếc phong bì nhỏ rồi rũ ra khóc... Xe lăn bánh và nước mắt tôi chảy dài trên má.
Đoàn xe chia về các ngả. Chúng tôi được đưa về thôn Vĩnh ninh, xã Vĩnh quỳnh Văn Điển và được phiên chế vào C4 K4 E95 F325. Nhận quân trang, phân về A, B và chia về các nhà dân trong thôn. Tối giở phong bì ra xem thấy một khăn mùi soa trắng viền chỉ đỏ, thêu một bông hoa và một con chim (có 1 con thôi, buồn nhỉ). Lặng lẽ đút vào túi.
Mấy hôm sau lên tàu ở ga VĐ. Tàu qua cầu Long Biên, nước ngập mênh mông mà lòng trống rỗng. Tối tàu tới ga Việt Yên. Lính xuống tàu hành quân bộ đến nơi đóng quân. Trời đêm, bờ tre tường nhà còn ngấn nước trận lũ 71. Các mẹ nấu nước che gánh ra ven đường cho bộ đội uống. Các cô dân quân đẩy xe cải tiến chở đơc ba lô cho các chàng lính cậu... Mờ sáng thì tới nơi đóng quân. Mệt quá, tôi chúi đầu vào một đống rơm ngủ li bì. Sáng hôm sau các A trưởng nháo nhào tìm gọi thu quân. Đại đội 4 của tôi đóng tại thôn Xuân Lạn, cách phố Thắng khoảng 3 km. Tổ 3 người có tôi, Bích học cùng lớp người Nghệ an và Thi K14 Hóa ở cùng một nhà. Dũng bạc ôm cây RPD nên được gọi là Dung ba que (nay gọi lại là Dũng "tử tế") cùng A khác tổ.
Ba tháng rèn binh bắt đầu. Ngoài các bài cơ bản là rèn thể lực. Lính đi xin tre về đan sọt, đóng đất thành từng viên 10kg một, xếp dần vào sọt tập đeo. Một viên, hai viên rồi tới ba, bốn viên. Đôi vai sần lên rồi nhẵn bóng, lên sừng vì đeo nặng. Đại đội trưởng của tôi là trung úy Khúc Quang Xuyền người Vĩnh bảo HP. Ông đi lính từ 1951, người nhỏ thó, đen đúa, rất có "uy" rèn lính. C4 toàn lính Bách Khoa, gồm SV các khoa Động lực, VTĐ, CTM, LK và Hóa, con em miền Nam tập kết có, dân trường Trỗi có. Lại có cả mấy chàng con ông kễnh nữa. Hồi ấy có những chàng "quậy" khét tiếng như Đặng Mạnh (HSMN tập kết, LHS Cuba về học CTM BK), Sâm "trọc"... nhưng ông Xuyền đều "trị" được hết. Phải nói là, sau thời gian huấn luyện, cả C đều "phục" C trưởng KQX. Đến nỗi sau này gặp nhau đều "khoe" tao ở C Xuyền đây.
Lính tập luyện nhiều, bị bệnh ngoài da. Cứ buổi chiều, khoảng 4h30 là trực ban lại tuýt còi cho anh em bị bệnh ngoài da bề tập trung bôi thuốc. Lính bị bệnh nhiều đến nỗi, đại đội phải dựng một bờ rào bằng cót cao để thao tác không bị lộ hình. Khu bôi thuốc trước cửa nhà ăn. Lính đứng sắp hàng ngang sau tấm cót che. Y tá Hải tay cầm một chiếc đũa cả tự chế quấn đầy gạc, nhúng đẫm thuốc. Đi qua đứa nào, anh lại hô "chổng" rồi quệt cho một chữ X. Xót quá, có chàng cắm cổ xuống đầm nước ngay đấy cho đỡ xót... Viết tới đây lại tràn nước mát nhớ anh Hải. Anh tốt lắm, thương và chăm lo cho lũ lính trẻ chúng tôi như một người chị chăm em vậy. Mùa rét, anh lấy tỏi giã, lọc nước thấm bông vê thành từng viên tròn cho từng đứa nút mũi phòng cảm lạnh. Anh hy sinh trong Cổ thành trong khi cứu chữa thương binh.
[...]

Thời gian huấn luyện đã hết.Toàn bộ trung đoàn sinh viên, một số được chia xẻ cho các binh chủng, các sư đoàn khác. Số còn lại được chia thành các đơn vị của chính E95. Lúc này, toàn sư đoàn cũng chuyển nhiệm vụ từ tăng cường sang cơ động. Tiểu đội tôi cũng tan đàn xẻ nghé. Dũng ba que, Thái bọ và một số lính SV có "căn cốt" VTĐ được phân về D18 TT cùa, C18 của E và các B TT của 3 tiểu đoàn 4,5 và 6. Mỗi ngày vài đứa đi, đại đội cứ vơi dần. Khi đã đi quá nửa quân số, C4 lại chuyển vị trí đóng quân sang làng khác, cách Xuân Lạn hơn 2 km. Về nơi ở mới, không luyện tập gì. Tôi được điều xuống nhà bếp với nhiệm vụ nuôi đàn lợn của dv gần chục con. Buồn chán quá, suốt ngày đánh lợn. Rồi một hôm, đang rửa chuồng lợn thì liên lạc xuống bảo lên C bộ. Lên C bộ thì thấy có 2 lính nữa là Lục Văn Long và Trịnh Thúc Doanh cùng có mặt, cùng với một ông cán bộ rất đẹp trai (sau này mới biết đó là trợ lý quân lưc E). Ba chúng tôi được giao nhiệm vụ theo chàng trợ lý này về E bộ. Thế là chúng tôi về E bộ, trở thành "lính trung đoàn là quan...". Lúc đó đã cuối tháng 12 năm 71. Về E bộ, Long được phân công làm cần vụ cho Trung đoàn trưởng Lý Long Quân vì hắn có thân hình cao to lừng lững. Tôi và Doanh về trung đội vệ binh. E bộ đóng ở thôn Nếnh, cách ga Việt Yên không xa. Khoảng nửa tháng sau, B vệ binh được bổ sung thêm một số lính Nam Định (F338) và một số lính Hải Hưng nhập ngũ 10-71. B vệ binh có 3 tiểu đội, mỗi A 7 chú đúng phiên chế chiến đấu hồi đó. Lính được trang bị toàn AK báng gấp loại dành cho lính nhảy dù của LX trông oách lắm.
Trung đội vệ binh đóng trong ngôi nhà ngang của đình làng Nếnh, cạnh đấy là bếp ăn của E bộ. Ngôi đình chính làm hội trường E bộ. Đời lính vệ binh bắt đầu bằng các bài tập võ thuật, các bài bắn súng. Đặc biệt, mỗi sáng thứ Hai hàng tuần thì lính vệ binh luân phiên nhau đọc 10 Lời thề và 12 Điều kỷ luật dưới cờ. Cho đến bây giờ vẫn còn nhớ "Chúng tôi, chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam, dưới lá cờ vinh quang của Tổ quốc xin thề..."
Công việc của lính vệ binh là bảo vệ, canh gác doanh trại, và đi làm KSQN tại khu vực ga Việt Yên và thị trấn Đáp Cầu. Một lần tôi cùng với Khóa, một chiến sĩ VB đi làm nhiệm vụ KSQN tại khu vực ga Việt Yên, băng đỏ KSQN đeo trên ống tay, AK báng gấp máng bên sườn trông oách lắm. Đi qua khu vục ga, thấy mấy cô em xinh đẹp đang cong m...đẩy xe cải tiến chở gạo, chú Khoa nhà ta ngứa mồm trêu một câu. Không ngờ các cô em xổ lại một tràng tiếng Nga. Chết bỏ mẹ! Chú Khóa nhà ta mặt tuỗn ra, hỏi Hùng ơi, chúng nó nói gì đấy. Tôi bảo Khóa mày để tao. Thế rồi cũng xổ ra một tràng ZDrachtvuiche,maia yvuska. Thế là các cô nàng đỏ mặt cười rũ rượi. Sau một hồi làm quen biết các cô nàng là sinh viên ĐHNN sơ tán ở Việt Yên.
[...]

Ra ngoài tết, tôi được gọi lên ban quân lực mấy ngày. Công việc là lập sổ quân lực mới cho toàn trung đoàn.Mỗi người được trói gọn trong một dòng, bắt đầu là họ và tên, kết thúc là ”Khi cần báo tin cho ai”. Linh tính mách bảo sắp đi B. Hoàn thành xong công việc toàn trung đoàn hành quân rời Việt Yên lên đóng quân tại Bố Hạ. E bộ đóng quân ven Đầm Mây trên một khu đồi lúp xúp đầy sim mua xen lẫn bạch đàn. Lính công binh của C17 dựng nhà bạt cho các thủ trưởng và ban Tham mưu. Còn cánh vệ binh mắc võng nằm ở vạt bạch đàn. Được mấy hôm thấy Công binh dựng thêm một lều bạt cho Trung đoàn trưởng Lý Long Quân. Các tham mưu con nhỏ to... Tôi gặp trưởng ban 5 và hỏi thì biết là vợ của thủ trưởng sẽ xuống thăm thủ trưởng vài ngày. Thủ trưởng tôi người dân tộc Tày, đi lính từ hồi chống Pháp khi mới mười mấy tuổi. Thủ trưởng đã có một người vợ nhưng không có con. Thủ trưởng đi chiến trường, bà ở nhà cưới cho ông một bà vợ khác để mong có con. Biết được như vậy, cánh vệ binh chúng tôi lặng người. Trung đoàn trưởng của chúng tôi là một người rất đặc biệt. Rất thương lính. Và nóng tính như lửa. Lúc nóng lên ông quát cấp dưới ầm ầm. Cái lều đã dựng xong. Hôm sau vợ thủ trưởng xuống. Một hôm gặp thủ trưởng tôi đánh bạo xin bố ơi, cho con về thăm nhà mấy hôm nhé. Cụ chỉ cười không nói. Chợt một hôm một chiếc commăngca chạy vào E bộ đón vợ thủ trưởng đi. Chúng tôi biết ngay là đi rồi. Hai hôm sau hành quân ra ga Kép lên tàu xuôi. Qua ga Hàng Cỏ, tàu dừng một lúc lâu. Vệ binh chúng tôi được lệnh làm nhiệm vụ KSQN. Không biết bao nhiêu lá thư được viết vội, được đưa vội vào tay những công nhân đường sắt, vào tay tất cả những ai có mặt trên sân ga lúc đó. Rồi tàu chuyển bánh. Qua đường Nam bộ, những lá thư viết vội vẫn tới tấp bay xuống mặt đường với những lời nhắn nhủ... Tàu chạy ngang qua trường Bách khoa. Tôi nhìn lên giảng đường C9 với chiếc cầu thang ngoài lồi ra phía đường Nam bộ thấp thoáng bóng người. Rồi tất cả ở lại phía sau. Xẩm tối tàu đến ga Gôi Ninh Bình, rẽ vào đoạn đường tránh. Ở đấy đã có một binh trạm tiếp đón. Chúng tôi xuống tàu lấy cơm. Lấy cơm xong tàu chuyển bánh ngay. Mờ sáng tới ga Quán Hành. Lính xuống tàu hành quân vào trong xóm. Tản ra các nhà dân. Chiều, xe ô tô vào chở lính đi tiếp. Các đơn vị thì cưỡi xe Giải phóng, còn lính E bộ lại cưỡi Hải âu. Đúng là “lính trung đoàn là quan...”. Vượt phà Bến Thủy khi chiều gần tắt nắng. Xe chạy gần tới Đèo Ngang thì dừng nghỉ. Các mẹ các chị ào ra mang nước chè tươi, mang trứng luộc ra cho bộ đội. Hết trứng luộc thì mang trứng sống. Tôi vớ được một quả trứng sống. Khoảng 4 giờ sáng xe tới vị trí tập kết. Đó là một thôn nhỏ thuộc xã Quảng Châu huyện Quảng trạch. B vệ binh chúng tôi vào trú tạm ở một trường học. Nhào vào một phòng học, kéo 2 cái bàn khít lại thế là ngủ thiếp đi. Sáng ra lại tiếp tục hành quân bộ đến vị trí đóng quân. E bộ đóng quân tại thôn Thủy Vực xã Quảng Hợp huyện Quảng trạch.
Thôn này có địa thế rất đẹp. Rìa làng có một con suối uốn quanh, sau lưng là dãy núi. Tiểu đội tôi đóng trong nhà một bà mẹ có 2 con trai đang ở chiến trường. Ông bọ đi thuyền đánh cá dưới Quảng Phú, vài hôm mới về nhà một lần. Mẹ thương chúng tôi lắm. Mẹ bảo các con mang cơm về ăn với mẹ. Ăn cơm với mẹ có cá nục kho, có mít non luộc xé nhỏ bóp mắm ruốc...
Ở cùng địa bàn với chúng tôi còn có trạm quân y 201 (không nhớ có phải là bệnh viện dã chiến của V108 hay V103). Tôi làm quen được với một cô anh nuôi, thỉnh thoảng vác bát sang xin em tí mỡ về cải thiện. Đơn vị bắt đầu ăn chuyển cấp từ 7 hào lên một đồng. Bữa cơm toàn lòng lợn xào bí ngô. Một hôm tôi và một người nữa đi ra HTX mua bán của xã mua mấy thứ lặt vặt, về đến đầu làng thì máy bay bổ đến đánh bom đúng vào vị trí đóng quân. Một cán bộ trợ lý quân lực trúng bom tan nát cả. Hai thằng bọn tôi về đến nơi thì máy bay Mỹ đã đi. Lao vào dọn dẹp. Đi nhặt từng mảnh thịt lẫn đất còn khét mùi khói bom. Một đoạn ruột vắt ngang cành tre... Mấy hôm sau ăn cơm cứ nhìn thấy ruột lợn trắng ởn trên đĩa thức ăn là kinh.
Chiến dịch Quảng Trị 1972 bắt đầu. E18 là đơn vị đầu tiên của F325 lên đường vào QT. Trong khi E 18 lặng lẽ vào, E95 bắt đầu cuộc diễn tập chống đổ bộ ở khu vực Đèo Ngang. Cuối tháng Sáu, đơn vị bổ sung quân trang chuẩn bị vào QT. Gạo nửa tháng đổ đầy ruột tượng, đạn 200 viên, cuốc xẻng, dao tông, cưa tay cấp phát túi bụi. Vào một chiều cuối tháng, đơn vị rời Quảng Hợp, hành quân đến bến đò xã Quảng Liên, xuống xà lan đi dọc sông, bắt đầu chặng đường vào QT. Chặng đi xe, chặng đi bộ. Vào tới Bãi Hà nghỉ dừng chân 1 hôm. Ở đây chúng tôi gặp một đoàn các cháu con em cán bộ miền Nam được đưa ra Bắc học tập. Trên đường từ Bãi Hà vào sông Bến Hải chúng tôi gặp các đoàn dân công hỏa tuyến tải thương binh ra. Bộ đội vượt sông Bến Hải tại ngầm Bến Tắt(hay Bến Than gì đấy). Sông Bến Hải mùa khô, nước cạn lòng sông lởm chởm đá trơn nhẫy, có mấy sợi dây song to bắt ngang sông để bộ đội bám vượt sông. Đến giữa sông, không ai bảo ai mấy mọi người bỏ mũ múc một mũ nước sông, uống tạm biệt miền Bắc. Qua sông, cả đoàn quân chìm ngập trong rừng cỏ tranh. Quảng Trị đang mùa khô, nóng hầm hập. Trên đầu máy bay OV10 lượn vè vè, tiếng bom tiếng pháo từ xa vọng về. Đơn vị dừng chân nghỉ tạm một đêm tại một làng ven sông Cam Lộ. Hôm sau hành quân tiếp. Địa điểm dừng chân tiếp của đơn vị là xá Triệu Ái. E bộ đóng tạm tại thôn Tả Kiên, ở lẫn trong dân. Đến đây hôm trước, hôm sau chúng tôi vào căn cứ Ái Tử lấy tôn vòm về làm hầm. Ở Tả Kiên được vài hôm, E bộ chuyển vào đóng tại thôn Tân Vĩnh ở bờ nam sông Vĩnh phước. Đây là thôn đã bị địch dồn dân bỏ hoang từ lâu rồi, không còn nhà cửa, ruộng mọc toàn cỏ tranh. Ven bờ sông mọc dầy các bụi tre gai, lác đác vài gốc mít. Tiểu đội tôi bố trí ngoài cùng, cùng với hầm anh nuôi và một hầm trực thông tin hữu tuyến. Đêm ngủ hầm đầu tiên ở Quảng trị, đến nửa đêm bị bom B52. Ba đứa ôm nhau trong hầm. Khói bom sặc sụa, hầm rung bần bật. Hết bom, nghe bắn súng báo cứu thương cả lũ cầm cuốc xẻng lao về cuối đơn vị. Đến nơi hối hả bới hầm sập, cứu được một vệ binh sư đoàn đi cùng thủ trưởng TM Sư xuống 95, còn một người khác thì hy sinh. Cùng trận bom B52 đó còn 1 lái xe của E phòng không đóng cùng địa bàn hy sinh. Đóng quân bên cạnh E bộ là C18 TT, bên bờ bắc sông Vĩnh Phước là C24 quân y và một trận địa DKB của E84. Quảng Trị lúc này đã biến thành chảo lửa, mà tâm điểm là thị xã QT. Tiếng bom tiếng pháo ngày đêm không ngớt. Ban ngày, bầu trời xẻ ngang xẻ dọc bởi các vệt khói B52 và pháo tăng tốc từ biển bắn vào, ban đêm từng quầng lửa bùng lên phía sông Thạch Hãn... Mới đầu, cũng sợ lắm, sau quen dần. Chính lúc không gian yên tĩnh nhất lại là lúc cái chết bất chợt đổ ập xuống.

Lính vệ binh, ngoài nhiệm vụ bảo vệ cứ, bảo vệ thủ trưởng đi thị sát mặt trận hoặc lên Sư bộ họp còn làm tất cả những nhiệm vụ bảo đảm hậu cần cho E bộ và các công tác hỗ trợ khác như tải thương,v.v. Đêm đêm chia nhau canh gác và ra cầu Lai Phước cất giấu đạn dược lương thực do xe chở vào đổ ở bờ Bắc, ngày thì vào Ái Tử, Nham Biều tải thương binh về C24. Khu vực bờ sông Vĩnh Phước thường xuyên bị pháo địch bắn vào. Một hôm máy bay đến ném bom dữ dội vào khu vực C18 và trận địa DKB. Một bạn cùng lớp tôi là lính của E84 hy sinh trong trận bom này. Sau này được đưa vào NTLS xã Triệu Ái cùng với các liệt sĩ khác trong khu vực đóng quân. Cánh vệ binh chúng tôi “may mắn” hơn các đồng đội khác là không trực tiếp chiến đấu nhưng cũng có hy sinh. Anh Chiểu B trưởng vệ binh hy sinh trên đường vào Cổ thành. Trịnh Thúc Doanh hy sinh đêm 16 tháng chín 1972 trong khi vượt sông... Tôi cũng mấy lần thoát chết. Một lần, trong lúc đang làm hầm cho cứ phụ ở Xê Kim Tác thì B52 đánh vào Ái Tử. Bom nổ cách hầm vài chục mét. May là kịp chui vào hầm (hầm làm bằng tôn vòm lấy trong căn cứ Ái Tử. Lần khác đi cáng thương từ Nham Biều về, đi ngang qua trận địa DKB thì bị pháo bắn. May cho 3 anh em đi trên đường cao, quả pháo nổ cắm ngay mép đường dưới thấp nên không ai dính mảnh. Ông thương binh lao từ trên võng qua hố bom bên vệ đường, chúi vào bụi dứa dại, hai ông tải thương đứng như trời trồng giữa đường, rồi cũng lao xuống hố bom tránh pháo...



lexuantuong1972
19 Tháng Bảy, 2012, 08:56:23 AM

Nhân dịp kỷ niệm 65 năm ngày thương binh liệt sĩ 27/7, hôm qua các đồng đội, bạn bè của Trịnh Thúc Doanh đã đến nhà để thắp hương cho bạn mình. Cùng đi có các cháu PV của TH kỹ thuật số VTC. Trước đấy mọi người cũng đã đến thắp hương cho Nguyễn Văn Ngọc ở Trần Khánh Dư.

Trịnh Thúc Doanh nguyên SV k15 Cơ khí của ĐHBK, nhập ngũ 6/9/1971, trước đó D là học sinh trường Trỗi với TTNL,PQ... Trịnh Thúc Doanh là lính vệ binh của e95/f325, Anh hy sinh ngày 16/9/1972 trong khi rút ra khỏi Thành. Bao nhiêu năm gia đình anh đi tìm mộ của anh mà không thấy. Tình cờ năm 2003, cô em dâu của Doanh chuyển về công tác cùng phòng với tôi, được biết tôi là lớp SV-CS QT, cô cho tôi biết tình hình. Mặc dù không biết Doanh nhưng cùng là lính SV nên có thể tìm ra thông tin về đồng đội mình. Từ đó tôi liên lạc với Dũng "tử tế", Minh "sứt", là SV k15 BK là lính của e95. Cuối cùng xác định được Doanh là vệ binh của e95 và cũng tìm ta được Toàn quê Hưng Yên (giờ là Trưởng ban tuyên giáo tỉnh ủy Hưng Yên) cùng hầm với Doanh, là người chứng kiến phút cuối cùng của Doanh. Được lệnh rút, Doanh từ hầm sát bờ sông chui ra trước và 1 quả pháo nổ tung ngay chỗ Doanh vừa tụt xuống... Toàn ra sau không thấy bạn mình đâu nữa... Đồng đội đã đưa gia đình vào chính nơi ngày xưa Doanh đã hy sinh, bốc một nắm đất bên bờ Thạch Hãn đưa về NTLS quê nhà tại Định Công, Hà Nội.



linh71 Thành viên
19 Tháng Bảy, 2012, 05:18:55 PM

Nhớ về các bạn tôi


...Trịnh Thúc Doanh học K15 Luyện kim Đại học bách khoa, là con một gia đình quân nhân. Bố mẹ Doanh đều là cán bộ của quân y viện 108. Tháng 9-1971 Doanh nhập ngũ cùng với các bạn bè trường Bách khoa và các trường ĐH khác. Doanh và tôi cùng ở đại đội 4 huấn luyện. Doanh có vóc người hơi nhỏ so với các lính khác trong đại đội.
Hết thời gian huấn luyện bộ binh Doanh được điều về C16. Nhưng do có một tật nhỏ ở gót chân nên Doanh được điều về B vệ binh cùng với tôi. Cùng B nhưng khác tiểu đội. Doanh tính tình hiền lành như con gái, ít nói. Bạn bè trêu đùa chỉ tủm tỉm cười. Vào Quảng Trị, tiểu đội tôi được phân bảo vệ BTM, tiểu đội của Doanh bảo vệ Ban Chính trị. Khi chính ủy Hoàng Thiện vào thành thì một tổ vệ binh vào theo, trong đó có Doanh. Doanh ở trong thành đến ngày cuối cùng. Đêm 15-9-1972, Trịnh Thúc Doanh vượt sông Thạch Hãn cùng với Vũ Đức Toàn, một chiến sĩ vệ binh cùng tiểu đội. Đang vượt sông thì Doanh trúng mảnh pháo, hy sinh. Xác trôi theo dòng nước cùng với bao đồng đội khác...
Thả đèn trên sông Thạch Hãn




...Mỗi lần vào Quảng Trị, khi qua sông Thạch Hãn nhìn mặt sông gợn sóng tôi lại như nhìn thấy các bạn tôi, từng lớp từng lớp trôi dần xa. Lại thấy vẳng bên tai
...Đò lên Thạch Hãn ơi... chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm ...

Các bạn tôi, người thịt xương tan vào đất cổ thành, người hóa thân thành con sóng Thạch Hãn, người nằm lại dọc đường giải phóng miền Nam... Mãi mãi không về. Mãi mãi còn sống trong lòng gia đình, đồng đội.

TRỊNH THÚC DOANH – BẠN TÔI

Đăng lại bài viết của anh Lê Minh K5 để ACE tiện theo dõi.


Dựng nước - Giữ nước > Máu và Hoa > Một thời máu và hoa (Các quản trị: quansuvn, binhyen1960) > Những chuyện không thể quên - Cười ra nước mắt (Phần 2)
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8
CHUYỆN XII

16 Tháng Chín, 2010, 10:15:28 AM

TRỊNH THÚC DOANH – BẠN TÔI

TichTuongNhuLe (Lê Minh - K5

Lê Minh - K5



2013 – Đã mất 08/2013
mb 0912084891 - nr35113881 - cq -- ---HN-VN
- - -
- ACE:

1972

)

Hôm nay 16/9. Ngày này cách nay 38 năm, sau 81 ngày đêm kiên cường chốt giữ thị xã Quảng Trị, chính thức thì người lính cuối cùng cũng đã vượt sông Thạch Hãn rút qua bờ bắc (đúng ra là bờ tây) trong ngày này. Chắc hẳn còn không ít anh em, hoặc ở chốt độc lập không biết lệnh rút, hoặc lạc đồng đội, hoặc bị thương không thể vượt sông đã ở lại bờ nam sau ngày 16/9/1972. Những anh em đó, cho đến bây giờ, vẫn không ai biết gì về họ . . .[1]
nguyenquochung
Một cựu thủy quân lục chiến ngụy tham gia trận đánh 81 ngày đêm kể lại: Sau khi lính mình rút khỏi thị xã và thành cổ về Bắc Thạch Hãn vào rạng sáng 16/9, lính họ tổ chức lùng sục khắp nơi và đã gặp rải rác trong khu vực quanh Thành cổ một vài ổ chiến đấu cùng thương binh của mình còn sót lại (đúng như bác TTNL đã viết). "Những người lính này có vẻ như không hề biết đến việc rút lui của đồng đội họ nên vẫn đánh trả kiên cường một cách ngoài sức tưởng tượng. nhưng rồi lần lượt, họ hy sinh đến người cuối cùng".

Cũng cần phải nói thêm rằng, lính VNCH thường dùng từ "tử trận" chứ không dùng từ "hy sinh" đối với lính chết trong lúc làm nhiệm vụ. Nhưng người cựu TQLC này đã dành từ "hy sinh" cho những người lính Việt Cộng bên kia chiến tuyến một cách vô cùng kính trọng.

Bác cựu TQLC này cũng nói lính dù và thủy quân lục chiến bên họ trước,nay chưa bao giờ ngán bắn nhau với lính Bắc Việt, nhưng từ sau trận 81 ngày đêm trong Thành cổ, họ phải thừa nhận không thể sánh bằng đối phương về độ lì lợm, gan góc.

Đến lạ và cũng có thể chẳng có gì là lạ là ông ấy, cái ông cựu TQLC từng đánh nhau tóe khói với "Cộng sản Bắc Việt" ấy bây giờ lại là bạn nhậu chí côt với một bác có gốc gác cách mạng gộc, bản thân cũng mấy chục năm tuổi đảng.

Nhân loại sinh ra vốn yêu thương nhau. Có thể một lúc nào đó, vì một lý do nào đó nhân loại xúm vào đánh nhau. Xong, nhân loại lại quay về với tính bản thiện của mình và...yêu thương nhau.


Trịnh Thúc Doanh học cùng tôi suốt 4 năm kể từ lớp bảy cho đến hết lớp 10. Hết lớp 10, Doanh thi vào Đại Học Bách Khoa còn tôi thí vào Đại Học Tổng Hợp. Chúng tôi thân nhau từ năm học lớp 9, sơ tán ở Hưng Hóa, Tam Nông, Phú Thọ. Những buổi chiều hay ngày Chủ Nhật hai đứa thường dạo chơi ở thị trấn Hưng Hóa, một phố huyện miền trung du đất đỏ với con đường rải đá khấp khểnh. Thể nào cũng rẽ qua cửa hàng hợp tác xã mua bán, nhìn ngó một tí thôi chứ có gì mà mua. Cái mà chúng tôi cần thì từ cái khăn mùi xoa cũng chẳng có. Đi lòng vòng một hồi chán rồi có khi rẽ qua đường đi Thanh Sơn, một con đường đất đỏ ngoằn nghoèo, chạy ven một cái đầm toàn những cỏ lác rồi chạy về phía núi. Cũng có khi chúng tôi đi về phía Trung Hà, qua đầm Dị Nậu, thôn Dị Nậu, mỏi chân thì quay về bờ sông. Đoạn sông này cũng là một phần của sông Hồng, chưa gặp ngã ba với sông Đà. Cuối cùng thì xà vào một cái quán nước ven sông. Đây là một bến thuyền nhỏ, thỉnh thoảng có thuyền chở than đến, rồi thuyền chở chuối, mít từ đây về xuôi. Hai thằng gọi 2 bát nước chè xanh, rồi trứng vịt luộc và chuối. Sao mà ăn khỏe thế. Chục trứng luộc chấm muối ớt chỉ một loáng là đánh bay, lại đánh tiếp chuối, chuối tiêu, chuối tây, chuối hột hay chuối lá.

Tối chúng tôi thường ra sân bóng, nằm trên cỏ ngắm trăng sao và nói chuyện linh tinh, đủ các thứ chuyện chỉ trừ chuyện gái. Không phải kiêng đâu mà vì không biết gì. Hết lớp 10 chúng tôi vẫn chưa lớn mà.[1b]
vitính
Trưa hôm qua 17/9 chúng tôi đi ngang Hưng Hóa, vào chụp ảnh cột cờ Hưng Hóa (tham khảo http://www.baophutho.org.vn/baophutho/vn/website/van-hoa-xa-hoi/2010/10/125B3DD4542/).
Cột cờ nằm trong doanh trại của đoàn công binh N43. Nơi mà ngày xưa bác và Doanh nằm ngắm trăng sao nói chuyện linh tinh là đâu đó ở bên phải của tấm ảnh này. Cái sân bóng, bây giờ, phần sát đường đã thành phố thị, sau đó là sân, khu thể thao của đoàn N43. Tôi chụp ảnh này từ phía lối vào cổng chính cũ bây giờ nó chỉ là một ngõ nhỏ ngắn qua lớp nhà dân. Cổng chính đoàn N43 mới bây giờ ngoảnh về dãy quán bán chuối, trứng,... mà qua đấy là đến bờ sông Thao.

TichTuongNhuLe
Đẹp quá nhảy bác ViTinh ! Doanh trại này trước kia cũng của công binh. Tôi nhớ hồi ở đó vẫn còn một số nhà để cầu phao. Chắc sân bóng trước cổng doanh trại bây giờ là nhà dân rồi. Thế thì đường vào chỉ là một con đường hẹp thôi. Nhưng đường trong phố thị chắc trải nhựa ngon lành, nhà cửa phố chắc cũng khang trang, sạch đẹp.


Năm 1970, Doanh vào Bách Khoa còn tôi vào Tổng Hợp. Tôi hay đến nhà Doanh. Nhà nó ở khu tập thể bệnh viện 108 quân đội. Bố Doanh là bác sỹ. Ông là bác sỹ đầu tiên được đào tạo dưới chính thể của Cụ Hồ. Mẹ Doanh cũng đang tại ngũ. Nhà tập thể cấp bốn chỉ có một phòng. Đàng sau nhà là khu bếp tập thể, mỗi nhà một ô. Muốn xuống bếp thì phải trèo qua cửa sổ . . .

Không ngờ rằng hai thằng tôi cùng nhập ngũ một ngày, 6/9/1971. Thế là từ đó bặt tin nhau.

Về sau này khi ra quân rồi tôi mới biết Doanh và tôi cũng ở cùng sư đoàn 325. Doanh ở trung đoàn 95 và lĩnh đủ 81 ngày đêm ở thị xã Quảng Trị.
Đúng ngày 16/9/72, được lệnh rút qua sông. Doanh hy sinh vì bị pháo lúc vượt qua sông . . .

***

Doanh nhập ngũ 6/9/71 vào trung đoàn 95. Sau 3 tháng huấn luyện ở Việt Yên, Hà Bắc. Cuối tháng 12 năm đó, toàn sư đoàn vào trấn giữ đèo Ngang đề phòng địch đổ bộ vào khu vực này khi 308 và 304 đánh Quảng Trị.[2]
sauchinbaymot
Ngày 10/2/1972, sư đoàn 325 rời Hà Bắc (ga Bắc Giang), lên tàu vào Hà Tĩnh, nhưng không phải toàn bộ sư đoàn. Chắc chắn có sư bộ và các đơn vị trực thuộc. Riêng Trung đoàn 101 mãi đến tháng 3 mới rời Hà Bắc vào Hà Tĩnh (xem Mãi mãi tuổi 20).

TichTuongNhuLe
Bác 6971 chỉnh lại đúng rồi Tháng 2/1972 95 mới hành quân vào đèo ngang. Sau đó cũng đi diễn tập ở đèo ngang rồi sang Quảng Bình.


Tháng 6/72, sư 325 bắt đầu vào Quảng Trị. Đây cũng là lúc địch phản kích để tái chiếm Quảng Trị. Trung đoàn 95 lúc đó ở Cam Lộ, đóng quân tại dãy Nghĩa Hy. Vị trí này rất thuận tiện đường đi lối lại. Nếu tiến lên thì có thể xuống Đông Hà rồi đi về Cửa Việt. Có thể tiến về phía nam thì đi qua gần căn cứ Phượng Hoàng đỏ ối rồi vào Ái Tử, Nhan Biều và vượt sông sang thành. Chếch xuống phía tây thi vào động Ông Do, Đá Đứng, Như Lệ - Tích Tường. Đường rút cũng rất thuận lợi. Có thể rút thẳng qua Cam Lộ, Bãi Hà và cũng có thể rút qua Đầu Mầu, Tân Lâm để đi Tà Cơn, Khe Sanh.

Ngày 1/7/72, hai tiểu đoàn của 95 vượt sông Thạch Hãn. d5 chốt giữ bìa đông nam của thành cổ, Ty Cảnh Sát, khu Đông Mỹ, chùa Bà Năm, kho rốc két. D4 chốt giữ bìa tây nam thành cổ và khu vực Dinh Tỉnh Trưởng cho đến khu Mỹ Tây. Trong thành là d3 của tỉnh đội Quảng Trị (gọi là quân của tỉnh Quảng Trị nhưng toàn lính bắc), sau đó thì d1 của trung đoàn 48 cũng rút về thành. D7/E18/F325 thì chốt giữ khu vực nhà Tin Lành, Đệ Ngũ. Trung đoàn 101 chốt giữ phía bắc sông Vĩnh Định kể từ Chợ Sãi.[3]
nguyenquochung
Thị xã bé như cái khăn mùi xoa. Thành cổ nằm trong cái khăn ấy nên còn bé hơn. Thế mà được Mỹ ưu ái cho ăn đạn pháo trung bình mỗi ngày hơn vạn quả, bom không rõ nhưng tổng kết lại đâu khoảng bằng 7 quả ném xuống Hirosima năm 1945, chưa kể các loại hỏa lực bộ binh nhì nhằng phụ họa thêm. Thế thì phản công hay phòng ngự, hầm chắc hay chưa chắc, chắc kết quả cũng chẳng khác nhau là mấy. Chỉ có cái chết bi tráng của mười mấy ngàn chiến binh Thành cổ là thật nhất, đau xót nhất.


Những người lính vượt sông Thạch Hãn vào Thành cổ ngày ấy đều xác định cái chết cho mình một cách nhẹ nhàng nhất. Ai ra được thì đúng như bác Lê XuânTrường đã nói ở đâu đó: Quả là một sự vô lý.


Thực ra thì mức độ ác liệt ở mọi nơi của thị xã cũng tương đối như nhau. Nhưng khi nói đến Quảng Trị 72 thì nhiều người nghĩ chỉ có Thành Cổ. Có một đia danh khác là Cổ Thành. Đây là một làng nằm phía bắc Thành Cổ. Theo tôi, chữ Thành Cổ bây giờ có nghĩa tượng trưng cho cả khu vực thị xã Quảng Trị trong mùa hè đỏ lửa 1972. Có thể rằng một vài điểm khác còn nóng hơn trong khu vực Thành cổ. Chẳng hạn như bến vượt ở Dinh Tỉnh Trưởng hay bến vượt ở Trường Phước, rồi Tri Bưu, khu Mỹ Đông, ty Cảnh Sát, Khu Mỹ Tây, Dinh Tỉnh Trưởng, Chợ Sãi, An Mô...

Nhà Doanh có 5 anh em. Lúc đó bố, mẹ Doanh và 2 anh trai của Doanh cũng đang tại ngũ. Do đó trước khi “đi bê”, Doanh được cho về thăm gia đình. Khi vào đến Quảng Trị thì Doanh vào sau mọi người. Lúc đầu về đến trung đoàn thì trung đoàn 95 đã ở phía nam Thạch Hãn. Doanh được đưa về c23, vệ binh trung đoàn. Sau đó, Doanh xuống đơn vị chiến đấu từ lúc nào thì các bạn tôi đều không nhớ. Chỉ nhớ là Doanh vào sau khoảng một tháng.

Tính từ 1/7/72 đến 16/9/72 là thời gian trung đoàn 95 tham gia chốt giữ thị Xã Quảng Trị - 78 ngày. Nếu Doanh vào sau một tháng thì thời gian ở đây là 48 ngày. Nhưng số ngày nào có nghĩa gì. Lúc vượt sông sang thành, rất nhiều anh em đã hy sinh. Chỉ là “không” ngày. Vậy thì 0 ngày hay 81 ngày có gì là quan trọng đâu! Quan trọng là, từng giờ, từng phút, từng giây biết bao AE đã đổ máu xương trên cái mảnh đất “Thị Xã Quảng Trị”, một vết thương không bao giờ có thể lành được...

Dưới đây là sơ đồ tác chiến các ngày 7, 8, 9 tháng 9/1972, theo tài liệu của "Ban Liên Lạc Truyền Thống - Ban Chiến Đấu Bảo Vệ Thành Cổ Quảng Trị" - 12/2004.

Diễn biến chiến đấu ở thị xã Quảng Trị ngày 7, 8, 9/9/1972.




Chuyện kể lại của Toàn, đồng đội Doanh

- Thằng Doanh vào sau trong đợt đổi quân và được phân về cùng hầm với tôi và thằng Phú. Doanh hiền lành, trẻ măng. Tôi còn nhớ, mặt nó nhiều trứng cá. Nó bảo bố nó làm ở bệnh viện 108... có quen trung đoàn trưởng Lý Long Quân nên xin phép cho nó về nhà trước khi đi chiến trường. Thằng này nó hiền lắm. Bọn mày biết đấy. Lúc đó bọn tao suốt ngày ngồi trong hầm, không thể ló mặt lên được. Hết B52 rồi lại đến máy bay ném bom. Lại còn máy bay gì hình như là L19, tao cũng chả biết, luôn tục xăm soi bắn đại liên suốt ngày.
- Chắc nó bắn 20 ly đấy.[4]
tralientay
--
Những người lính vượt sông Thạch Hãn vào Thành cổ ngày ấy đều xác định cái chết cho mình một cách nhẹ nhàng nhất. Ai ra được thì đúng như bác Lê XuânTrường đã nói ở đâu đó: Quả là một sự vô lý.
--

Tôi bổ sung thêm hai điều mắt thấy tai nghe:

1. Đầu tháng 7.1972, trước khi vào Nhan Biều, tiểu đội tôi đóng chừng 10 ngày ở một thôn phía Bắc thị xã QT quãng 4-5km, bờ Tây Thạch Hãn, bên trái là Ái Tử (xem lại thì có thể là thôn Ái Tử hay Hà Xá hoặc ở giữa). Hằng ngày bọn tôi đi vào Ái Tử tìm hiểu địa hình. Đây là lúc làm quen bom đạn, vì ngày nào cũng có pháo bắn vào hoặc gần làng.

Và lúc đó tôi biết các đợt chuyển quân vào Thành vì đây là điểm giao quân từ Bắc vào.

Mỗi đêm, một số lính dăm bảy chục người do cán bộ khung dẫn hành quân qua đêm, rạng sáng tới làng. Chập tối hôm sau, dăm cán bộ đại đội từ vùng thị xã ra nhận quân. Mỗi đơn vị nhận một số lính, thủ trưởng mới và lính mới không rõ mặt nhau, chỉ một danh sách trong tay. Vào đến nơi, mỗi hầm sẽ nhận một hai lính mới thay cho những người bi thương hay hy sinh một vài ngày trước. Có anh ra nhận quân nói, lính hôm trước đưa vào chưa kịp biết mặt, thuộc tên (vì ai ở hầm nấy) thì ngay trong đêm hay hôm sau đã thương vong rồi.

"Thằng Doanh vào sau trong đợt đổi quân và được phân về cùng hầm với tôi và thằng Phú."

Họ hầu hết là lính mới nhập ngũ, rất nhiều chưa qua đủ 3 tháng huấn luyện. Từ chỗ chưa biết bom đạn là gì họ đến thẳng một nơi nhiều bom đạn nhất trên đời.

2.
--
Thực ra thì mức độ ác liệt ở mọi nơi của thị xã cũng tương đối như nhau. Nhưng khi nói đến Quảng Trị 72 thì nhiều người nghĩ chỉ có Thành Cổ. Có một đia danh khác là Cổ Thành. Đây là một làng nằm phía bắc Thành Cổ. Theo tôi, chữ Thành Cổ bây giờ có nghĩa tượng trưng cho cả khu vực thị xã Quảng Trị trong mùa hè đỏ lửa 1972. Có thể rằng một vài điểm khác còn nóng hơn trong khu vực Thành cổ. Chẳng hạn như bến vượt ở Dinh Tỉnh Trưởng hay bến vượt ở Trường Phước, rồi Tri Bưu, khu Mỹ Đông, ty Cảnh Sát, Khu Mỹ Tây, Dinh Tỉnh Trưởng, Chợ Sãi, An Mô . . . (TTNL)
--

Đúng. Cần hiểu cuộc chiến 81 ngày đêm bảo vệ thị xã Quảng Trị gồm những trận đánh xung quanh thành cổ và tại chính thành cổ trong những ngày cuối, có mức ác liệt đều rất cao.

Rất khó có ai có thể nhìn tổng thể để đánh giá mức độ khốc liệt ở các nơi. Hai đài quan sát của tiểu đội tôi quãng 15.7-16.9.1972 ở bờ sông Nhan Biều trông qua thị xã và đầu cầu QT có nhiệm vụ chính là hằng ngày đếm số bom, số đạn pháo, ... ở vùng quanh thị xã (cả làng Nhan Biều) và mỗi ngày vài lần điện về sư đoàn. Tôi cũng trực tiếp theo dõi nhiều trận đánh phía bên kia sông. Có thể nói thành cổ chịu rất nhiều bom đạn trong suốt những ngày tháng đó, ngày nào cũng rất nhiều bom pháo, dù các trận đánh ở đây chỉ dày đặc hơn ở giai đoạn cuối. Các trận đánh khác rất khốc liệt tại Tri Bưu, La Vang, ... diễn ra trong thời gian ngắn hơn.

Có thể nói những trận xung quanh thị xã rất ác liệt trong một vài ngày hay một hai tuần lễ, nhưng chịu bom đạn mật độ cao và dai dẳng thì chính là thị xã và thành cổ, và những trận đánh cuối cùng ở đây cũng rất ác liệt, vì chỉ còn mỗi nơi này.

Phan Nhật Nam, vốn là lính sư dù rồi làm phóng viên chiến trường của QLCH, trong cuốn "Mùa hè đỏ lửa" có mô tả (tại chỗ) các trận đánh ở phần đầu của mùa hè này. Có lẽ đó là những mô tả trực tiếp duy nhất có trong sách báo.

Tiếc là chưa có một cuốn sách nào về trận 1972 ở QT.

- Bọn mày biết không? Bọn tao mót đái thì cứ bụm tay mà đái vào rồi hất ra ngoài. Trời thì cứ mưa suốt. Hầm thì nước vào, dưới chân bùn nhão nhoét trộn với máu. Tao nghĩ chẳng khác gì bọn Pháp ở Điện Biên hay bọn Mỹ ở Khe Sanh. Kinh thật! bây giờ nghĩ vẫn kinh.
- Quá kinh! Mà sống được là không sao hết.
- Lúc bọn tao ở sát thành, thằng Doanh mới vào. Nó còn hộp sữa đặc mẹ nó nhét vào ba lô trước khi đi. Đói quá, bọn tao lấy thông nòng xọc hai cái lỗ, thế là thay nhau tu. Rồi khát nước. Mày biết không? Tu hết hai bi đông nước, toàn nước sông, sát trùng sát chiếc gì cũng chẳng có. Cả ba thằng bị tháo tỏng. Thằng Phú bĩnh cả ra quần thành ra trong hầm vừa khai vừa thối, ẩm thấp tanh tưởi. Nghĩ lại, ghê quá!
- Thế lúc rút qua sông như thế nào?
- Cứ từ từ… cho khoai nó nhừ! Đến chiều 15 bọn nó đã bao vây ba mặt. Bọn tao chỉ còn mấy cái hầm. Ban ngày không thể liên lạc được với nhau. Cứ hầm nào có địch thì hầm đó chống trả, thỉnh thoảng mới hỗ trợ được cho nhau. Mãi tối khuya mới có thằng truyền đạt chạy đến bảo rút qua sông.
- May mà ra lệnh rút nếu không bây giờ bọn tao đâu nhìn thấy mày.

Chuyện kể lại của Huy, đồng đội Doanh

- Đêm 15/9 chúng tao được lệnh rút. Tao chỉ cầm theo khẩu súng thôi. Mà thằng nào cũng thế. Lúc đó ba bề bốn bên đều là địch rồi, chỉ còn mỗi lối xuống sông thôi. Nếu không cho rút thì chết hết cả… Toán nào toán nấy, nháo nhào bổ xuống sông. Tao nhanh chân chạy đầu tiên, lao ngay xuống nước, mấy thằng nhóm tao cũng bơi bám theo. Súng tao khoác vào vai, thế là tao bơi rất nhanh. Bọn thằng Doanh và mấy thằng nữa cùng chốt của nó chạy sau tao cũng lao xuống nước. Một quả pháo nổ sáng lòe ngay phía sau tao. Tao thấy hơi tức ngực nhưng có vẻ như không bị thương. Nhóm thằng Doanh, thằng Toàn, thằng Phú chạy sau tao không biết có việc gì không? Bọn tao sang đến bờ mới ngồi thở, sờ khắp người thấy không bị thương ở đâu. Chờ chúng nó một lúc thì chỉ thấy thằng Toàn mới thằng Phú bơi sang. Chúng nó bảo thấy quả pháo trúng chỗ thằng Doanh.
- Thế ông có biết chỗ vượt sông là chỗ nào không?
- Chỉ biết bên này là Nhan Biều thôi.
- Thế phía trên hay phía dưới cầu Quảng Trị?
- Phía dưới chứ!
- Thế có gần cầu không?
- Chắc là gần.
- Được rồi.
- Ừ! Lúc đó làng mạc, phố phường, chỗ nào chẳng như chỗ nào tơi tả hết biết đâu là Nhan biều hay hay Nhan biếc gì, là khi bọn tao chốt thì thấy bảo bên kia là Nhan Biều. Thế thôi!

Chuyện kể tiếp của Toàn, đồng đội Doanh

- Thằng Doanh chạy trước, rồi đến tao, thằng Phú chạy sau cùng. Lúc tao đến sát bờ sông thì đã thấy thằng Doanh nhảy xuống rồi. Nó đang bơi thì lòe một cái tối tăm mặt mũi. Quả pháo trúng ngay chỗ thằng Doanh. Bọn tao thì lăn ngay xuống, đ… biết là hố hay rãnh hay gì nữa. Lúc ngớt pháo tao vẫn còn lóa, phải một lúc mới nhìn được. Hai thằng tao mới gọi thằng Doanh, mà cũng chỉ dám gọi khẽ. Bọn nó ở ngay xung quanh mà. Bọn tao lội xuống rồi bơi, quờ quạng khắp mà không thấy.
- Ừ! Thôi, mày đừng có day dứt mãi thế! Trong cảnh ấy thì làm sao mà tìm được. Chắc nó trúng đạn, lại mang súng thì chìm xuống rồi.
- Mãi rồi bọn tao đành bơi qua sông. Thật may khi qua sông không bị quả đạn pháo nào. Sang đến nơi mới thấy pháo sáng bọn nó bắn ăn mừng, rực trời. Cả ngày hôm sau tôi nằm trong hầm ngập nước ở Nhan Biều ngủ li bì. Có lẽ Doanh trúng đạn rồi bị cuốn trôi theo dòng. Khi ấy đang là mùa nước.
- …
- Mày biết không? Tao vẫn bị ám ảnh cảnh thằng Doanh bị trúng pháo. Tiếng chúng tao gọi nó rất nhỏ thôi mà sao lúc nào cũng văng vẳng bên tai tao:
“Doanh ơi...! Doanh ơi...!”


Chuyện Thúc Doanh - bạn tôi, chẳng bao giờ hết, một vết thương đau không bao giờ thôi nhức nhối


Vị trí vượt sông Thạch Hãn của Thúc Doanh và đồng đội
sau khi điều chỉnh theo góp ý của TraLienTay[5]
tralientay
--
Theo lời kể của Toàn và Huy thì chỗ Doanh cùng đồng đội vượt sông là chỗ vòng tròn đỏ.
--

Tôi nghĩ là phải ở phía trên nữa, có thể quãng giữa vòng tròn và thành cổ. Mặt sông phía ta giữ được mấy ngày cuối chỉ chừng 300-400 mét. Từ thành cổ đến đầu cầu hơn 1km. Đoạn giữa Nhan Biều (trông sang thành cổ) và đầu cầu là nơi chúng tôi thường đi lại hàng ngày giũa hai đài quan sát.

Các bạn ấy hình như cũng nhầm, vì cầu ở phía dưới không phải phía trên.

TichTuongNhuLe
Có thể bác TraLienTay nói đúng nhưng cầu ở phía trên là đúng rồi vì tính theo dòng nước chảy chứ không phải nhìn trên bản đồ. Đây là bản đồ tỷ lệ 1:50000 được phóng to lên, mỗi ô chỉ là 1 km. Từ Dinh Tỉnh Trưởng tới cầu chưa đầy 1 cây số.

tralientay
Đây là chuyện nếu làm rõ hơn được thì tốt, do liên quan đến nơi một người bạn hy sinh, nên tôi thêm vài lời.

Tôi vẫn nghĩ chỗ mọi người qua sông vào đêm 15/9 ở gần phía Bắc hơn. Trong vòng quãng 1-2 tuần trước khi mất thị xã, từ ở đài quan sát Nhan Biều tôi đã theo dõi một trận đánh lớn ở dọc bờ sông quãng gần trưa. Đây là lần duy nhất tôi thấy rõ quân bên kia, không rõ dù hay thủy quân lục chiến, chạy đi chạy lại, bắn và ném lựu đạn vào các chốt của ta (các trận khác phía trong tôi không thấy người, trừ khói và tiếng súng). Nơi trận đó diễn ra theo tôi nhớ gần thành cố hơn chỗ cái vòng bắc TTNL khoanh rồi. Mà quân ta trong những ngày cuối chắc không có dịp đẩy bên kia lùi lại.

TichTuongNhuLe
Bác TraLienTay là người trực tiếp quan sát tình hình thị xã Quảng Trị những ngày ta sắp rút. Một đài quan sát của trinh sát sư đoàn 325 tại Nhan Biều. Theo góp ý của bác tôi đã chỉnh lại vị trí vượt sông của Thúc Doanh và đồng đội như hình dưới.



[6]
Mr.NganCựu chiến binh
Đọc các bài viết của Bác tichtuongnhule thật cảm động..48 ngày sống và chiến đấu của Liệt sĩ Doanh thật ngắn ngủi nhưng nó đã viết nên lịch sử nghìn năm hào hùng và anh dũng của dân tộc !!



Tích Tường Như Lệ là Lê Minh K5,
bạn hiện là Giảng viên Đại học GTVT


Lời góp của các thành viên Diễn đàn "Dựng nước - Giữ nước"

1
nguyenquochung Thành viên
Một cựu thủy quân lục chiến ngụy tham gia trận đánh 81 ngày đêm kể lại: Sau khi lính mình rút khỏi thị xã và thành cổ về Bắc Thạch Hãn vào rạng sáng 16/9, lính họ tổ chức lùng sục khắp nơi và đã gặp rải rác trong khu vực quanh Thành cổ một vài ổ chiến đấu cùng thương binh của mình còn sót lại (đúng như bác TTNL đã viết). "Những người lính này có vẻ như không hề biết đến việc rút lui của đồng đội họ nên vẫn đánh trả kiên cường một cách ngoài sức tưởng tượng. nhưng rồi lần lượt, họ hy sinh đến người cuối cùng".

Cũng cần phải nói thêm rằng, lính VNCH thường dùng từ "tử trận" chứ không dùng từ "hy sinh" đối với lính chết trong lúc làm nhiệm vụ. Nhưng người cựu TQLC này đã dành từ "hy sinh" cho những người lính Việt Cộng bên kia chiến tuyến một cách vô cùng kính trọng.

Bác cựu TQLC này cũng nói lính dù và thủy quân lục chiến bên họ trước,nay chưa bao giờ ngán bắn nhau với lính Bắc Việt, nhưng từ sau trận 81 ngày đêm trong Thành cổ, họ phải thừa nhận không thể sánh bằng đối phương về độ lì lợm, gan góc.

Đến lạ và cũng có thể chẳng có gì là lạ là ông ấy, cái ông cựu TQLC từng đánh nhau tóe khói với "Cộng sản Bắc Việt" ấy bây giờ lại là bạn nhậu chí côt với một bác có gốc gác cách mạng gộc, bản thân cũng mấy chục năm tuổi đảng.

Nhân loại sinh ra vốn yêu thương nhau. Có thể một lúc nào đó, vì một lý do nào đó nhân loại xúm vào đánh nhau. Xong, nhân loại lại quay về với tính bản thiện của mình và...yêu thương nhau.

1b
vitính Cựu chiến binh
Trưa hôm qua 17/9 chúng tôi đi ngang Hưng Hóa, vào chụp ảnh cột cờ Hưng Hóa (tham khảo http://www.baophutho.org.vn/baophutho/vn/website/van-hoa-xa-hoi/2010/10/125B3DD4542/).
Cột cờ nằm trong doanh trại của đoàn công binh N43. Nơi mà ngày xưa bác và Doanh nằm ngắm trăng sao nói chuyện linh tinh là đâu đó ở bên phải của tấm ảnh này. Cái sân bóng, bây giờ, phần sát đường đã thành phố thị, sau đó là sân, khu thể thao của đoàn N43. Tôi chụp ảnh này từ phía lối vào cổng chính cũ bây giờ nó chỉ là một ngõ nhỏ ngắn qua lớp nhà dân. Cổng chính đoàn N43 mới bây giờ ngoảnh về dãy quán bán chuối, trứng,... mà qua đấy là đến bờ sông Thao.

TichTuongNhuLe Thành viên
Đẹp quá nhảy bác ViTinh ! Doanh trại này trước kia cũng của công binh. Tôi nhớ hồi ở đó vẫn còn một số nhà để cầu phao. Chắc sân bóng trước cổng doanh trại bây giờ là nhà dân rồi. Thế thì đường vào chỉ là một con đường hẹp thôi. Nhưng đường trong phố thị chắc trải nhựa ngon lành, nhà cửa phố chắc cũng khang trang, sạch đẹp.

2
sauchinbaymot Thành viên
Ngày 10/2/1972, sư đoàn 325 rời Hà Bắc (ga Bắc Giang), lên tàu vào Hà Tĩnh, nhưng không phải toàn bộ sư đoàn. Chắc chắn có sư bộ và các đơn vị trực thuộc. Riêng Trung đoàn 101 mãi đến tháng 3 mới rời Hà Bắc vào Hà Tĩnh (xem Mãi mãi tuổi 20).

TichTuongNhuLe Thành viên
Bác 6971 chỉnh lại đúng rồi Tháng 2/1972 95 mới hành quân vào đèo ngang. Sau đó cũng đi diễn tập ở đèo ngang rồi sang Quảng Bình.

3
nguyenquochung Thành viên
Thị xã bé như cái khăn mùi xoa. Thành cổ nằm trong cái khăn ấy nên còn bé hơn. Thế mà được Mỹ ưu ái cho ăn đạn pháo trung bình mỗi ngày hơn vạn quả, bom không rõ nhưng tổng kết lại đâu khoảng bằng 7 quả ném xuống Hirosima năm 1945, chưa kể các loại hỏa lực bộ binh nhì nhằng phụ họa thêm. Thế thì phản công hay phòng ngự, hầm chắc hay chưa chắc, chắc kết quả cũng chẳng khác nhau là mấy. Chỉ có cái chết bi tráng của mười mấy ngàn chiến binh Thành cổ là thật nhất, đau xót nhất.


Những người lính vượt sông Thạch Hãn vào Thành cổ ngày ấy đều xác định cái chết cho mình một cách nhẹ nhàng nhất. Ai ra được thì đúng như bác Lê XuânTrường đã nói ở đâu đó: Quả là một sự vô lý.
4
tralientay Thành viên
--
Những người lính vượt sông Thạch Hãn vào Thành cổ ngày ấy đều xác định cái chết cho mình một cách nhẹ nhàng nhất. Ai ra được thì đúng như bác Lê XuânTrường đã nói ở đâu đó: Quả là một sự vô lý.
--

Tôi bổ sung thêm hai điều mắt thấy tai nghe:

1. Đầu tháng 7.1972, trước khi vào Nhan Biều, tiểu đội tôi đóng chừng 10 ngày ở một thôn phía Bắc thị xã QT quãng 4-5km, bờ Tây Thạch Hãn, bên trái là Ái Tử (xem lại thì có thể là thôn Ái Tử hay Hà Xá hoặc ở giữa). Hằng ngày bọn tôi đi vào Ái Tử tìm hiểu địa hình. Đây là lúc làm quen bom đạn, vì ngày nào cũng có pháo bắn vào hoặc gần làng.

Và lúc đó tôi biết các đợt chuyển quân vào Thành vì đây là điểm giao quân từ Bắc vào.

Mỗi đêm, một số lính dăm bảy chục người do cán bộ khung dẫn hành quân qua đêm, rạng sáng tới làng. Chập tối hôm sau, dăm cán bộ đại đội từ vùng thị xã ra nhận quân. Mỗi đơn vị nhận một số lính, thủ trưởng mới và lính mới không rõ mặt nhau, chỉ một danh sách trong tay. Vào đến nơi, mỗi hầm sẽ nhận một hai lính mới thay cho những người bi thương hay hy sinh một vài ngày trước. Có anh ra nhận quân nói, lính hôm trước đưa vào chưa kịp biết mặt, thuộc tên (vì ai ở hầm nấy) thì ngay trong đêm hay hôm sau đã thương vong rồi.

"Thằng Doanh vào sau trong đợt đổi quân và được phân về cùng hầm với tôi và thằng Phú."

Họ hầu hết là lính mới nhập ngũ, rất nhiều chưa qua đủ 3 tháng huấn luyện. Từ chỗ chưa biết bom đạn là gì họ đến thẳng một nơi nhiều bom đạn nhất trên đời.

2.
--
Thực ra thì mức độ ác liệt ở mọi nơi của thị xã cũng tương đối như nhau. Nhưng khi nói đến Quảng Trị 72 thì nhiều người nghĩ chỉ có Thành Cổ. Có một đia danh khác là Cổ Thành. Đây là một làng nằm phía bắc Thành Cổ. Theo tôi, chữ Thành Cổ bây giờ có nghĩa tượng trưng cho cả khu vực thị xã Quảng Trị trong mùa hè đỏ lửa 1972. Có thể rằng một vài điểm khác còn nóng hơn trong khu vực Thành cổ. Chẳng hạn như bến vượt ở Dinh Tỉnh Trưởng hay bến vượt ở Trường Phước, rồi Tri Bưu, khu Mỹ Đông, ty Cảnh Sát, Khu Mỹ Tây, Dinh Tỉnh Trưởng, Chợ Sãi, An Mô . . . (TTNL)
--

Đúng. Cần hiểu cuộc chiến 81 ngày đêm bảo vệ thị xã Quảng Trị gồm những trận đánh xung quanh thành cổ và tại chính thành cổ trong những ngày cuối, có mức ác liệt đều rất cao.

Rất khó có ai có thể nhìn tổng thể để đánh giá mức độ khốc liệt ở các nơi. Hai đài quan sát của tiểu đội tôi quãng 15.7-16.9.1972 ở bờ sông Nhan Biều trông qua thị xã và đầu cầu QT có nhiệm vụ chính là hằng ngày đếm số bom, số đạn pháo, ... ở vùng quanh thị xã (cả làng Nhan Biều) và mỗi ngày vài lần điện về sư đoàn. Tôi cũng trực tiếp theo dõi nhiều trận đánh phía bên kia sông. Có thể nói thành cổ chịu rất nhiều bom đạn trong suốt những ngày tháng đó, ngày nào cũng rất nhiều bom pháo, dù các trận đánh ở đây chỉ dày đặc hơn ở giai đoạn cuối. Các trận đánh khác rất khốc liệt tại Tri Bưu, La Vang, ... diễn ra trong thời gian ngắn hơn.

Có thể nói những trận xung quanh thị xã rất ác liệt trong một vài ngày hay một hai tuần lễ, nhưng chịu bom đạn mật độ cao và dai dẳng thì chính là thị xã và thành cổ, và những trận đánh cuối cùng ở đây cũng rất ác liệt, vì chỉ còn mỗi nơi này.

Phan Nhật Nam, vốn là lính sư dù rồi làm phóng viên chiến trường của QLCH, trong cuốn "Mùa hè đỏ lửa" có mô tả (tại chỗ) các trận đánh ở phần đầu của mùa hè này. Có lẽ đó là những mô tả trực tiếp duy nhất có trong sách báo.

Tiếc là chưa có một cuốn sách nào về trận 1972 ở QT.
5
tralientay Thành viên
--
Theo lời kể của Toàn và Huy thì chỗ Doanh cùng đồng đội vượt sông là chỗ vòng tròn đỏ.
--

Tôi nghĩ là phải ở phía trên nữa, có thể quãng giữa vòng tròn và thành cổ. Mặt sông phía ta giữ được mấy ngày cuối chỉ chừng 300-400 mét. Từ thành cổ đến đầu cầu hơn 1km. Đoạn giữa Nhan Biều (trông sang thành cổ) và đầu cầu là nơi chúng tôi thường đi lại hàng ngày giũa hai đài quan sát.

Các bạn ấy hình như cũng nhầm, vì cầu ở phía dưới không phải phía trên.

TichTuongNhuLe Thành viên
Có thể bác TraLienTay nói đúng nhưng cầu ở phía trên là đúng rồi vì tính theo dòng nước chảy chứ không phải nhìn trên bản đồ. Đây là bản đồ tỷ lệ 1:50000 được phóng to lên, mỗi ô chỉ là 1 km. Từ Dinh Tỉnh Trưởng tới cầu chưa đầy 1 cây số.

tralientay Thành viên
Đây là chuyện nếu làm rõ hơn được thì tốt, do liên quan đến nơi một người bạn hy sinh, nên tôi thêm vài lời.

Tôi vẫn nghĩ chỗ mọi người qua sông vào đêm 15/9 ở gần phía Bắc hơn. Trong vòng quãng 1-2 tuần trước khi mất thị xã, từ ở đài quan sát Nhan Biều tôi đã theo dõi một trận đánh lớn ở dọc bờ sông quãng gần trưa. Đây là lần duy nhất tôi thấy rõ quân bên kia, không rõ dù hay thủy quân lục chiến, chạy đi chạy lại, bắn và ném lựu đạn vào các chốt của ta (các trận khác phía trong tôi không thấy người, trừ khói và tiếng súng). Nơi trận đó diễn ra theo tôi nhớ gần thành cố hơn chỗ cái vòng bắc TTNL khoanh rồi. Mà quân ta trong những ngày cuối chắc không có dịp đẩy bên kia lùi lại.

TichTuongNhuLe Thành viên
Bác TraLienTay là người trực tiếp quan sát tình hình thị xã Quảng Trị những ngày ta sắp rút. Một đài quan sát của trinh sát sư đoàn 325 tại Nhan Biều. Theo góp ý của bác tôi đã chỉnh lại vị trí vượt sông của Thúc Doanh và đồng đội như hình dưới.

6
Mr.Ngan Cựu chiến binh
Đọc các bài viết của Bác tichtuongnhule thật cảm động..48 ngày sống và chiến đấu của Liệt sĩ Doanh thật ngắn ngủi nhưng nó đã viết nên lịch sử nghìn năm hào hùng và anh dũng của dân tộc !!

Chủ Nhật, 13 tháng 11, 2016

Viếng NTLS Xã Mỹ Yên, Đại Từ, thắp hương mộ LS Đỗ Khắc Tiến

Tổng hợp

Nhân dịp kỷ niệm 51 năm trường NVT Tại Mỹ Yên Đại Từ, các đại biểu tham dự (đại diện Thầy Cô giáo, CNBCNV, học sinh các Khóa trường VHQĐ - TSQ Nguyễn Văn Trỗi - Lãnh đạo, đại diện các đoàn thể xã Mỹ Yên, thầy Đại Thành, gia đình Liệt Sỹ Đỗ Khắc Tiến...) đã viếng thăm Nghĩa trang liệt sĩ xã, thắp hương cho các liệt sĩ hy sinh trong kháng chiến chống Pháp (còn nhiều mộ chưa có tên), chống Mỹ, trong đó có liệt sĩ Đỗ Khắc Tiến - học sinh k6 trường ta.

Ảnh Ngô Thế Vinh, Nguyễn Hữu Thành, Nguyễn Cương, Kiến Quốc, Võ Song Yên, Nguyễn Anh Minh, Nguyễn Thắng Lương (Ngọc),...
















Các bạn k6 trước mộ Đỗ Khắc Tiến k6